TS LÊ NHỊ HÒA
Học viện Chính trị khu vực III
(TTKHCT) - Xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cùng với xây dựng CNXH, Đảng ta xác định: củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân. Bằng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, bài viết nghiên cứu làm rõ một số vấn đề: (1) Mối quan hệ biện chứng giữa bảo vệ Tổ quốc XHCN và xây dựng CNXH trong quá trình phát triển đất nước; (2) Nhận thức của Đại hội lần thứ XIII của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong quá trình xây dựng CNXH; (3) Một số vấn đề cần quan tâm nhằm: bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Ảnh minh họa
Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức do sự cạnh tranh, xung đột giữa các quốc gia. Chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp về chủ quyền biển đảo, lãnh thổ, các thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục gia tăng với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tình hình trên Biển Đông diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định. Những hành động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia Việt Nam trên Biển Đông đặt ra những thách thức và yêu cầu mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Trong bối cảnh đó, việc làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cả xã hội đối với bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước
Trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được bổ sung, phát triển.
Thứ nhất, bảo vệ Tổ quốc XHCN là sự thống nhất hữu cơ giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia với bảo vệ sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, bảo vệ mục tiêu và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Trước những biến đổi nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, là sự gắn chặt giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ với bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới mang tính toàn diện, cả trên phương diện tự nhiên - lịch sử và phương diện chính trị - xã hội. Đảm bảo an ninh quốc gia và phát triển của đất nước trong một chỉnh thể thống nhất biện chứng. Trong mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN có sự thống nhất cao giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ chế độ XHCN; bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Đảng nhận thức ngày càng đầy đủ, cụ thể hơn về nội dung, phương thức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, coi đó là những hoạt động thường xuyên để bảo vệ Tổ quốc: xây dựng lực lượng lớn mạnh, sẵn sàng đấu tranh với các thế lực thù định trong các tình huống xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, biên giới, gây rối biểu tình, bạo loạn vũ trang, lật đổ, ly khai. Đấu tranh thường xuyên chống các tư tưởng, hành động sai trái với đường lối, quan điểm của Đảng. Những quốc gia tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lật đổ chế độ XHCN, xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam đều là đối tượng đấu tranh. Trong mỗi đối tượng có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của Việt Nam, cần phải kiên quyết đấu tranh.
Thứ hai, sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước là nền tảng vững chắc của quốc phòng, an ninh
Từ thực tiễn hoạt động chống phá nhiều mặt của các thế lực thù địch, Đảng nêu rõ: phải xây dựng CNXH đạt những kết quả thiết thực, làm cho đất nước giàu mạnh, không ngừng gia tăng sức mạnh mọi mặt của quốc gia thì mới đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng CNXH. Bởi vì CNXH không những là mục đích của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, mà còn vì CNXH. Sự vững mạnh của chế độ XHCN là sự bảo đảm cho độc lập và tự do của Tổ quốc”1. Chệch hướng XHCN được Đảng xác định là một nguy cơ trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế; tác động trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ XHCN và con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam. Theo đó, đấu tranh phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc XHCN có hiệu quả nhất để giữ bản chất chế độ XHCN. Qua đây làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch. Chính vì thế Đảng chủ trương “Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để bảo vệ Tổ quốc XHCN. Làm cho nền kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị-xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”2. Xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và bảo vệ Tổ quốc XHCN là nền tảng vững chắc để xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
Thứ ba, tạo lập, củng cố môi trường hòa bình, ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng đất nước và giữ vững chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN không chỉ giữ cho “trong ấm” thông qua việc chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội mà còn phải đảm bảo “ngoài êm”, thiết lập quan hệ quốc tế với các nước đối tác trên cơ sở bình đẳng, hai bên cùng có lợi; tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc. Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương tham gia tích cực và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới, trong đó có hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, chủ động, tích cực bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên các lĩnh vực, Đảng ngày càng nhận thức đầy đủ, toàn diện về vai trò của công tác đối ngoại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Công tác đối ngoại phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước: tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh và xu thế thời đại; góp phần giữ gìn, tạo lập môi trường hòa bình, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá nhiều mặt của các thế lực thù địch. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định luôn gắn liền với việc ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo đảm phát triển đất nước bền vững, theo đúng định hướng XHCN.
2. Nhận thức mới của Đại hội lần thứ XIII của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa, đổi mới và hội nhập quốc tế
Xây dựng CNXH gắn liền với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là quy luật tồn tại và phát triển của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội lần thứ XIII của Đảng thể hiện nhận thức mới về bảo vệ Tổ quốc XHCN trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế”3 để bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tổng hợp bởi nhiều yếu tố: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Chúng phải được gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh và xu thế của thời đại, trong đó sức mạnh bên trong, sức mạnh của “lòng dân”, sức mạnh của chế độ chính trị-xã hội là nhân tố quyết định. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc XHCN được thực hiện trong thời bình là sức mạnh của quân sự tự vệ, phòng thủ đất nước nhưng không thụ động; luôn chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi mọi âm mưu của kẻ thù, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô; làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ.
Về lực lượng bảo vệ Tổ quốc XHCN. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân, được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ Tổ quốc.
Về phương châm bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên định nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Quán triệt phương châm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Giữ vững lợi ích quốc gia trên biển. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Kiên quyết, kiên trì là phương châm, đồng thời là phương pháp trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, là nguyên tắc chỉ đạo hành động trong bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên cơ sở luật pháp Việt Nam và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”4.
Về phương thức bảo vệ Tổ quốc XHCN. Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định phuơng thức chủ yếu để bảo vệ Tổ quốc: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”5. Trước những thời cơ và thách thức của đất nước, những biến động nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, để thực hiện tốt phương thức bảo vệ Tổ quốc, cần “nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”6. Luôn chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng.
3. Một số vấn đề cần quan tâm nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn tới
Trong những thập niên tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có cả thời cơ và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trên thế giới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”7. Phát biểu tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, ngày 28/9/2020, Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền biển đảo đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp; bên cạnh đó, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với Đảng, Nhà nước, chế độ và Quân đội ta cũng ngày càng tinh vi, nham hiểm, trực diện hơn”8. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong quá trình xây dựng CNXH, phát triển đất nước, cần chú ý một số vấn đề sau:
Một là, giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc XHCN là một nguyên tắc chiến lược của cách mạng Việt Nam. Quan điểm Đảng lãnh đạo đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nguyên tắc được quy định trong các văn kiện và điều lệ Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đảng không chia quyền, không nhường quyền lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cho bất cứ một đảng phái, một tổ chức nào. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng tạo ra sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng lãnh đạo mọi mặt cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh là toàn diện về hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược, về tổ chức xây dựng tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh hiện nay, cần nhận thức sâu sắc nguyên tắc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội trong nước. Đảng và Nhà nước hoàn thiện chính sách để tập hợp, quy tụ, khơi dậy, phát huy cao nhất lòng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức mạnh “lòng dân”; tạo sự thống nhất, bền chặt giữa “ý Đảng” và “lòng dân”; “lòng dân” và “ý Đảng” trong bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hai là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về bảo vệ Tổ quốc XHCN cho thế hệ trẻ; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền về chủ quyền biển đảo trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Sức mạnh lớn nhất của dân tộc Việt Nam là sức mạnh của lòng yêu nước, là ý chí tự cường dân tộc được nuôi dưỡng, bồi đắp, trao truyền, nối tiếp từ thế hệ này qua thế hệ khác trong mạch nguồn dòng chảy lịch sử. Do đó, cần triển khai đồng bộ chiến lược thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nhằm bồi đắp, giáo dục, nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm của lực lượng thanh niên đối với công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng lưu ý: “Coi chừng có nhiều người Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất quý báu của mình bằng những người nước ngoài”9. Vì vậy, cần thông qua giáo dục lịch sử để tăng cường ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trong thế hệ trẻ, bồi đắp, nuôi dưỡng, định hình nhận thức đúng đắn về chủ quyền biển đảo, khơi dậy ý chí tự cường dân tộc. Có các hình thức phù hợp để tăng cường giáo dục giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với khoảng 5,3 triệu người là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền để cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến biển đảo và giải quyết những tranh chấp, bất đồng trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, từ đó có nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích của quốc gia - dân tộc. Tiếp tục xây dựng các chính sách phù hợp để thu hút mọi nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài tham gia và đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Ba là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên Biển Đông theo các nguyên tẳc của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc
Vùng biển đảo Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm giữa Biển Đông là nguồn lực tài nguyên chiến lược cho phát triển đất nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những diễn biến phức tạp, khó đoán định trên Biển Đông; sự cạnh tranh chiến lược của các nước lớn ở đây đang ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường phát triển kinh tế biển của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam giữ vững chủ trương kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển. Đồng thời chủ động, tích cực giải quyết các tranh chấp và khác biệt trên biển bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở các nguyên tắc của Luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. “Trên cơ sở chính nghĩa và luật pháp quốc tế, giữ gìn hòa bình và ổn định, linh hoạt ứng xử trong các vấn đề quốc tế, không để bất cứ bên nào lôi kéo cuốn vào vòng tranh chấp...; tránh nguy cơ rơi vào thế “kẹt” giữa các nước lớn trong một số vấn đề, hoặc là bị cả hai bên lôi kéo, hoặc là phải ở thế “lưỡng đầu thọ địch”10. Chính sách của Việt Nam tại Biển Đông hướng đến đảm bảo mục tiêu: giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; bảo đảm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không để xảy ra xung đột, đối đầu với các bên liên quan; đảm bảo việc khai thác tài nguyên trên các vùng biển của Việt Nam được xác định theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Việt Nam dựa vào sức mạnh của luật pháp quốc tế, dựa vào sức mạnh của lẽ phải, sức mạnh của sự thật lịch sử để bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng trên Biển Đông.
Bốn là, chủ động thực hiện phương sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; giữ vững hòa bình, ổn định, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Trước những diễn biến phức tạp và sự cạnh tranh chiến lược của các nước lớn trên Biển Đông, lợi ích quốc gia Việt Nam là duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, chủ động tăng cường quan hệ, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược để giữ vững thế cục hòa bình; cân bằng hợp lý quan hệ chiến lược với các nước lớn, các nước láng giềng và các nước đối tác. Với tư duy và nhận thức mới về bảo vệ Tổ quốc XHCN, cần nhận thức và quán triệt sâu sắc lấy ngăn ngừa, không để xảy ra chiến tranh, xung đột là hình thức giành thắng lợi tốt nhất. Kiên trì giải quyết những tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, cơ chế, quy tắc của khu vực; tranh thủ cao nhất sự ủng hộ của nhân dân và dư luận quốc tế. Cần nâng cao chất luợng công tác dự báo chiến luợc, nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố có thể gây đột biến, bất lợi; đồng thời luôn nêu cao cảnh giác làm thất bại mọi âm muu, hoạt động xâm lược, chống phá của các thế lực thù địch, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ và chính nghĩa; đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, tăng cường quan hệ hợp tác với tất cả các nước, tranh thủ tối đa sự ủng hộ từ cộng đồng và dư luận quốc tế, thực hiện kế sách bảo vệ chủ quyền biển, đảo “từ sớm, từ xa”, từ lúc nước chưa nguy. Trong bối cảnh mới, cần vận dụng sáng tạo và linh hoạt hơn nữa quan điểm chiến lược “đối tác, đối tượng” để nâng cao năng lực “tự chủ chiến lược”, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy”, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ của quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược từ bên ngoài.
4. Kết luận
Sau chặng đường gần 40 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã tạo ra sức mạnh tổng hợp quốc gia, vị thế và tiềm lực mới của đất nước. Thành tựu bao trùm là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Là quốc gia đang phát triển, Việt Nam cần nhận thức sâu sắc chiến lược xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN: gia tăng sức mạnh, tiềm lực, vị thế quốc gia; nâng cao năng lực tự bảo vệ đất nước, chủ động nghiên cứu, dự báo, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trên hướng biển; tranh thủ cao nhất sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế, trong đó có các nước lớn; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo, lợi ích chính đáng, hợp pháp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc.
---------
Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học Chính trị số 3 (33) - 2023
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.43, tr.57.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.169.
3, 4, 5, 6, 7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.155, 33, 157, 159, 107.
8 Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.438.
9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.567.
10 Vũ Văn Hiền: Dự báo tình hình thế giới và những vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tố quốc trong thập niên tới, Tạp chí Cộng sản, số 958, tháng 1/2021, tr.105.