TS PHẠM VĂN GIANG
Học viện Chính trị khu vực III

(TTKHCT) - Chủ nghĩa Mác ra đời đến nay đã gần 180 năm, bằng sự chỉ ra quy luật vận động khách quan của xã hội, những nhiệm vụ lịch sử cần giải quyết để từng bước giải phóng áp bức, giải phóng con người, giải phóng xã hội. Chủ nghĩa Mác có giá trị mãi trường tồn và sức sống bền vững trong lòng nhân loại tiến bộ trên thế giới và nhân dân Việt Nam đối với những dự báo về sự phát triển tương lai, mà nguyên lý phổ quát là quy luật ra đời và phát triển tất yếu của chủ nghĩa xã hội (CNXH), chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Bài viết đề cập những giá trị phương pháp luận của chủ nghĩa Mác trong nhận thức xu hướng vận động, phát triển của CNXH hiện thực trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.

1. Chủ nghĩa Mác ra đời từ những năm 40 của thế kỷ thứ XIX, do C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) sáng lập, về sau được V.I.Lênin (1870-1924) và các đảng cộng sản vận dụng, bổ sung và phát triển phù hợp với điều kiện mới. Đây là học thuyết khoa học và cách mạng toàn diện, triệt để, có giá trị nhân văn sâu sắc nhất.

Chủ nghĩa Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể tiêu diệt chế độ tư bản và sáng tạo xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra cho giai cấp vô sản là trước hết phải tự mình vùng lên đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Và trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết chung quanh mình tất cả những người lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản phải đi tới lập nên nhà nước chuyên chính vô sản, giai cấp vô sản dùng nó làm công cụ để xây dựng CNXH và CNCS.

Đây là cách tiếp cận khoa học, cho phép chủ nghĩa Mác luận giải quy luật vận động và phát triển của lịch sử nhân loại. Nhiều nhà xã hội học nổi tiếng ở phương Tây thừa nhận rằng: “C.Mác đã cung cấp cho xã hội học và chính trị học hiện đại những tiếp cận lý thuyết bao quát và mạnh mẽ nhất” và “điều chắc chắn bất cứ lý thuyết phân tầng nào đều vay mượn của Mác cách lý giải về giai cấp, ngay dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng cách bài bác Mác như là sai lầm và bị lịch sử vượt qua. Lý do món nợ là ở chỗ học thuyết Mác về xã hội chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế và các quan hệ kinh tế này lại tạo thành nền tảng của giai cấp”.

Theo quy luật phát triển, chủ nghĩa tư bản ra đời là tất yếu lịch sử. Xét về lịch sử, thì vào khoảng những thập kỷ đầu của thế kỷ XVI giai cấp tư sản bắt đầu bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội độc lập, là chủ thể của một chế độ xã hội mới - chế độ TBCN. “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” - đây là bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại, thể hiện vai trò tích cực, tiến bộ của giai cấp tư sản.

Điều mà không ai có thể phủ nhận, đó là chủ nghĩa tư bản từ khi ra đời và phát triển đến nay đã đạt được nhiều thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ. Nhưng cũng từ đó không ít người ngưỡng mộ, tán dương và xem đó là mô hình phát triển cần hướng đến xây dựng. Vậy, chủ nghĩa tư bản có quá trình phát triển như thế nào? Những thành tựu đạt được đó là do đâu? Cần nhớ rằng, chủ nghĩa tư bản đã có hơn 500 năm ra đời và phát triển. Trong suốt quá trình đó, chủ nghĩa tư bản đã xâm lược, chiếm đoạt, vơ vét tài nguyên khắp toàn cầu. Nhìn lại lịch sử phát triển của các nước tư bản như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,... chúng ta thấy, trên con đường phát triển của họ ngập ngụa máu và nước mắt của nhân dân cần lao chính quốc và thuộc địa. Chính Terry Eagleton - một học giả người Anh cũng phải chua chát thừa nhận rằng: “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”.

Ngày nay, lịch sử nhân loại có nhiều đổi thay so với thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh để tiếp tục thích ứng trong điều kiện mới. Nhưng điều đó không làm cho chủ nghĩa tư bản thay đổi bản chất và nằm ngoài quy luật mà chủ nghĩa Mác đã chỉ ra, trái lại càng chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay. Dù có cố gắng điều chỉnh thế nào đi chăng nữa, thì chủ nghĩa tư bản hiện vẫn không khắc phục được khuyết tật vốn có, đó là bất bình đẳng. Càng phát triển hố sâu ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu sắc hơn. Trong đó, “một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội”.

Bên cạnh những nhà tư bản giàu sang, thì có hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu người thất nghiệp, sống dưới mức nghèo khổ, vô gia cư, không được học hành và chăm sóc y tế đầy đủ. Nhiều tệ nạn xã hội đang làm suy thoái đạo đức, tha hóa con người. Cũng cần phải nói thêm rằng, hiện nay ngoài vài ba chục nước tư bản phát triển, thì không phải bất kỳ quốc gia nào đi theo con đường tư bản chủ nghĩa đều là nước phát triển, mà ngược lại phần lớn các nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa vẫn còn nghèo nàn và lạc hậu về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội luôn bất ổn.

Cùng với quá trình toàn cầu hóa, sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày càng được mở rộng ra ngoài chính quốc. Chỉ có điều, khác với trước đây hình thức bóc lột được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng, “văn minh” và tinh vi hơn. Càng phát triển, các thế lực tư bản càng hung hăng và hiếu chiến, với mục đích không gì khác hơn là vơ vét tài nguyên của các nước nghèo, yếu thế, tranh giành thị trường. Gây chiến tranh trên khắp thế giới, chạy đua vũ trang nhằm mục đích buôn bán vũ khí để phục vụ cho lợi ích chính mình. Can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền bằng những lý lẽ và chứng cứ hết sức vô lý, đã gây ra các cuộc chiến ở Afghanistan, Iraq, Libya, Syria. Chiến tranh đã làm hàng trăm triệu người dân vô tội không có chốn dung thân, gia đình ly tán, sống trong những điều kiện hết sức tồi tệ; hàng chục triệu người dân thường bị chết, hàng vạn thanh niên là con em dân thường đã bỏ xác ở lại chiến trường một cách vô nghĩa. Tất cả tội ác đó đã phơi bày bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, đi ngược lại với CNXH, với khát vọng, mong muốn hòa bình của nhân dân và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.

CNXH hiện thực ra đời và phát triển đến nay mới chỉ hơn 100 năm, nhưng đã đạt được những thành tựu hết sức vĩ đại. Trong đó, Liên Xô có gần 70 năm tồn tại và phát triển, nhưng chỉ mất khoảng 20 năm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, biến nước Nga từ một nước kém phát triển trở thành một Liên Xô có công nghiệp hùng mạnh; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được đảm bảo ở mức cao; là quốc gia đi đầu trong các phát minh khoa học và chinh phục vũ trụ. Chưa kể, nhờ Liên Xô hùng mạnh đã chặn đứng được chủ nghĩa phát xít, cứu nhân loại khỏi thảm họa diệt chủng trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sự ảnh hưởng của CNXH hiện thực đã giúp các dân tộc thuộc địa trên thế giới tự đứng lên giải phóng khỏi sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng phạm phải nhiều sai lầm, khuyết điểm dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội, sụp đổ. Có nhiều nguyên nhân của sự sụp đổ ấy. Trong đó, nguyên nhân sâu xa của vấn đề là trong quá trình đi lên xây dựng CNXH theo mô hình Xô viết bên cạnh những thành tựu vĩ đại đạt được, thì đã có những hạn chế, khuyết điểm chậm được phát hiện và sửa chữa, dẫn đến xơ cứng, giáo điều, thiếu sáng tạo, không phù hợp với bối cảnh mới. Từ những năm 1970 trở đi, trình độ sản xuất của thế giới bước vào giai đoạn phát triển mới, dựa trên cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba và toàn cầu hóa. Trong khi đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tỏ ra xơ cứng, trì trệ, khép kín, không bắt kịp với những thay đổi nhanh chóng của thời đại. Hậu quả là trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ ngày càng tụt hậu so với các nước tư bản phát triển, năng suất lao động giảm sút, kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng, buộc phải cải tổ. Tuy nhiên, trong cải tổ lại lúng túng, muốn đốt cháy giai đoạn, không nhận thấy rõ nguyên nhân thực sự của khủng hoảng, đề ra biện pháp cải tổ không đúng hướng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu đã mắc phải những sai lầm, khuyết điểm rất nghiêm trọng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ. Nhân danh dân chủ hóa đã từng bước từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Xét lại và cuối cùng phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin ở một số nhân vật lãnh đạo cao nhất. Cùng với đó, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” cực kỳ thâm độc, vừa trắng trợn, vừa tinh vi nhằm chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng chủ nghĩa đế quốc không đánh mà thắng. Tất nhiên, chúng không thể làm được điều này nếu như có sự đoàn kết, cảnh giác của Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân Liên Xô; không để cho bọn xét lại và phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Đảng, tiếp tay cho các lực lượng thù địch, cơ hội chủ nghĩa.

Thực tế cũng đã và đang chứng minh, CNXH hiện thực rơi vào khủng hoảng đâu chỉ có Liên Xô và các nước Đông Âu. Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba,... đều rơi vào khủng hoảng cùng thời điểm, nhưng quá trình cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam, Lào, cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã hội ở Cuba đã và đang đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Có được những thành công đó là nhờ kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện thực tế của từng quốc gia, dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Tất cả những điều đó cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH cụ thể, do vận dụng sai, giáo điều, xét lại và cuối cùng là phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuyệt nhiên đó không phải là sụp đổ của một học thuyết khoa học và cách mạng.

CNXH là tất yếu khách quan, bởi vì chỉ có CNXH mới giải quyết được những vấn đề tồn đọng và nan giải của loài người mà CNTB đã đẩy tới mức cực độ gay gắt. CNXH là “đơn đặt hàng của lịch sử”, nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vì lợi ích của nhân dân lao động và tiến bộ của loài người. CNXH không phải là một trạng thái có sẵn mà là một phong trào hiện thực và do đó, không chỉ là lối mở bức bách mà còn là con đường và những biện pháp sử dụng mọi phương tiện mà loài người đã tạo ra trong trường kỳ lịch sử, để giải thoát loài người ra khỏi trạng thái khủng hoảng, mâu thuẫn triền miên.

2. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác đến nay đã gần 180 năm, nhưng những dự báo của chủ nghĩa Mác về sự phát triển tương lai của nhân loại vẫn còn nguyên giá trị, mà nguyên lý phổ quát là dự báo quy luật phát triển tất yếu của nhân loại là tiến tới CNXH, CNCS. Những nhận định, dự báo xu hướng phát triển tất yếu của chủ nghĩa Mác là trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kế thừa, phát triển những giá trị lý luận và những thành tựu của khoa học mà nhân loại đạt đến thời điểm C.Mác và Ph.Ăngghen sống và hoạt động. Hiện nay, trước những thành tựu mới của khoa học và sự biến đổi của xã hội, chúng ta cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác phù hợp với điều kiện mới.

Chủ nghĩa Mác là học thuyết mở, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chưa bao giờ coi học thuyết của mình như là một giáo điều cứng nhắc, siêu hình, bất khả xâm phạm. Trái lại, C.Mác, Ph.Ăngghen và sau này là V.I.Lênin đã rất nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản trong quá trình vận dụng phải biết sáng tạo, bảo vệ và phát triển. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1872 của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”. Và “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Điều đó có nghĩa, không phải lý luận của chủ nghĩa Mác là bất biến, là khuôn mẫu cho tất cả mọi trường hợp, mà chỉ là phương pháp luận trong vận dụng vào từng điều kiện cụ thể. Vấn đề chủ yếu ở đây là phải hiểu đúng bản chất của chủ nghĩa Mác, nhất là những nguyên lý có tính quy luật, để có những nhận thức đúng về CNXH khoa học. Thực tiễn phát triển của CNXH hiện thực đã và đang cho thấy, ở đâu và khi nào vận dụng đúng, trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác thì ở đó thành công, ngược lại ở đâu phản bội, vận dụng sai nguyên lý chủ nghĩa Mác thì ở đó thất bại. Sự thành công của CNXH hiện thực trong lịch sử và hiện tại, sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã minh chứng điều đó.

Ngày nay, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, học thuyết của C.Mác về CNXH vẫn còn nguyên giá trị. Đây là cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu về thế giới đương đại, về quá trình vận động và phát triển của CNXH hiện thực. C.Mác từng cho rằng “lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới”. Đó là bức tranh về thế giới đang hiển hiện trước mắt chúng ta trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ở đó, các quốc gia dân tộc cùng tồn tại, hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh gay gắt, mà không một quốc gia nào muốn phát triển nằm ngoài quy luật này. Đối mặt với tình hình mới của sự phát triển, các nước đã có những điều chỉnh và thay đổi từ lý thuyết đến chiến lược riêng để thích ứng với sự phát triển mới của xã hội. Điều này đòi hỏi các đảng cộng sản cầm quyền và các đảng cộng sản ở các nước khác trong điều kiện kinh tế và chính trị mới, phải có những mục tiêu phát triển mới, chiến lược mới, phải thực hiện những thay đổi thích hợp. Các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũng phải tăng cường hợp tác, đoàn kết mạnh mẽ hơn, giúp gia tăng sức mạnh, tạo ra những ưu thế của riêng hệ thống, cũng như cho CNXH hiện thực.

Về mặt lý luận, sau khi phân tích và luận chứng tính tất yếu thay thế của CNCS đối với CNTB, C.Mác và Ph.Ăngghen từng nêu ra những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai. Tuy nhiên, những đặc trưng đó, không phải là cái dứt khoát sẽ xảy ra, chúng chỉ tồn tại với tư cách là những dự đoán, những khả năng về sự biến đổi trong tương lai chứ không phải là kết quả nghiên cứu được rút ra trên cơ sở phân tích chính các sự kiện của xã hội tương lai. Còn việc những đặc trưng đó có trở thành hiện thực hay không là tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện xây dựng CNXH của từng quốc gia, dân tộc. Nghĩa là không có sự rập khuôn máy móc trong áp dụng học thuyết Mác về CNXH cho từng quốc gia dân tộc, mà phải trên tinh thần khoa học. Tính khoa học trong xây dựng CNXH là làm sáng tỏ quy luật phát triển của nó trên cơ sở tìm ra mối quan hệ nội tại, xu hướng phát triển. Dĩ nhiên, thực hành xã hội luôn luôn phong phú hơn và phức tạp hơn lý thuyết. Các lý thuyết khoa học được đề xuất bởi chủ nghĩa Mác luôn được thực tiễn kiểm nghiệm, liên tục được làm giàu, bổ sung và phát triển trong sự phát triển của thực hành xã hội. Chủ nghĩa Mác luôn là cơ sở lý thuyết để hướng dẫn phong trào CNXH trên thế giới.

Hiện nay, sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của riêng mình đã trở thành xu thế chủ đạo sự phát triển của phong trào CNXH thế giới, các đảng cộng sản đã và đang khám phá con đường phát triển riêng, để hình thành lý thuyết và chiến lược riêng. Sỡ dĩ như vậy vì tình hình của mỗi nước khác nhau, ý thức của người dân cao hay thấp, tình trạng của quan hệ giai cấp trong nước, cán cân lực lượng giai cấp cũng rất khác nhau. Sự biến đổi và chuyển đổi của phong trào XHCN thế giới là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội thế giới, đó là sự thay đổi của các đảng cộng sản trên thế giới để thích nghi với những thay đổi trong môi trường mới.

Ngay cả lịch sử phát triển của các đảng tư sản, chúng ta có thể thấy rõ rằng không một đảng phái chính trị nào tồn tại hơn 100 năm mà không trải qua nhiều thay đổi trong đường lối lãnh đạo. Vì vậy, sự thay đổi của đảng cộng sản nhằm lãnh đạo phong trào CNXH thế giới là tất yếu. Về bản chất quốc tế, CNXH hiện thực không tự giam mình trong một chủ nghĩa dân tộc hoặc hẹp hòi, cực đoan, bá quyền, khép kín. Nhưng cũng không có CNXH nào lại không gắn liền với bản sắc, truyền thống dân tộc, không xuất phát từ đặc thù lịch sử, hoàn cảnh và trình độ phát triển của dân tộc.

Nếu các quốc gia trên thế giới luôn tìm kiếm nghiên cứu những mô hình thành công trong quản trị đất nước, thì Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong dòng chảy của toàn cầu hóa và sự tiếp biến văn hóa hiện nay, mỗi quốc gia và các đảng chính trị trên thế giới đều phải hướng đến sự hợp tác, trao đổi lẫn nhau. Hội nhập, tiếp thu lý luận, mở rộng dân chủ và không ngừng nâng cao tính chính đáng của mình đang là đòi hỏi với các đảng chính trị nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta hiện nay, một trong những vấn đề đặt ra là bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác trong tình hình mới. Chúng ta cần có tinh thần đổi mới, giải phóng để phát triển, trước hết là ở lý luận, vì nói đổi mới tư duy, điều căn bản là phải ở việc đổi mới tư duy lý luận. Hiện nay, quốc tế hóa, toàn cầu hóa trở thành một xu thế của thế giới đương đại. Cả thế giới dường như là một thị trường, phân công lao động, hợp tác quốc tế hết sức năng động. Mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thế giới mở. Nước nào chấp nhận hợp tác phân công lao động sẽ có cơ hội phát triển, hòa nhập với thế giới, không chấp nhận sẽ bị bỏ rơi. Quốc tế hóa, toàn cầu hóa là xu thế phát triển khách quan của xã hội loài người và suy cho cùng được quy định bởi sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Hội nhập quốc tế chính là sự ứng xử chủ quan của các quốc gia dân tộc đối với xu thế khách quan của thời đại. Nói cách khác, hội nhập quốc tế là một tiến trình chủ quan dựa trên nhận thức về các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Hội nhập quốc tế là phương thức phát triển đất nước phù hợp với xu thế khách quan của thế giới và thời đại.

Không những vậy, CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là chưa có tiền lệ, con đường đó luôn cần những sự tìm tòi, bổ sung, phát triển không ngừng. Ngày nay, chúng ta cần nhận thức CNXH từ nhiều góc độ: CNXH nhìn từ góc độ kinh tế thị trường; CNXH nhìn từ góc độ xã hội; CNXH nhìn từ góc độ văn hóa và CNXH từ góc nhìn chính trị và tầm nhìn thời đại. CNXH hiện thực ngày nay vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi các quốc gia trong đó có Việt Nam cần phải có những nghiên cứu sâu rộng hơn nữa về các mô hình phát triển khác nhau. Việc nghiên cứu các mô hình phát triển trên thế giới hiện nay cùng với sự hợp tác với các nước XHCN, các trào lưu XHCN trên thế giới là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết vì những yêu cầu của đổi mới kinh tế và chính trị ở nước ta, gắn với yêu cầu của việc nghiên cứu về thế giới hiện đại, về những thay đổi lớn, xu thế và động thái của CNTB hiện đại cũng như CNXH đương đại.

Chủ nghĩa Mác đã có những chỉ dẫn quý báu về những vấn đề có tính nguyên tắc của công tác tư tưởng, lý luận trong quá trình cách mạng XHCN. Bởi thế, việc vận dụng chủ nghĩa Mác cần bám sát và phù hợp với điều kiện thực tiễn từng quốc gia dân tộc và xu thế của thời đại. Cần nhận thức sâu sắc rằng, xây dựng CNXH là một quá trình to lớn, khó khăn chưa từng có trong lịch sử. Tuy nhiên, không thể dừng lại ở nhận thức chung chung có phần trừu tượng về con đường phát triển của CNXH trên thế giới, mà phải căn cứ vào điều kiện cụ thể, từ xuất phát điểm cũng như những đặc điểm cơ bản của truyền thống, từ chiều sâu lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị của các quốc gia dân tộc đến đặc điểm, thành tựu, hạn chế, xu hướng vận động biến đổi của CNXH đương đại.

Nước ta thực hiện đổi mới, xây dựng CNXH trong điều kiện CNXH hiện thực và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có những thay đổi nhưng còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Xây dựng CNXH trong điều kiện bỏ qua chế độ TBCN, trong khi CNTB đang “áp đảo” trên nhiều phương diện, trong điều kiện quan hệ hợp tác sâu rộng với các nước tư bản. Yếu tố nghịch chiều cản trở sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta không chỉ là những yếu tố vô hình và hữu hình trong nước mà còn đến từ bên ngoài bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với quy mô lớn và nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Xây dựng, phát triển CNXH trong khi về cơ bản chưa có một nền sản xuất công nghiệp hiện đại; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong khi nhân loại đã bước vào giai đoạn Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển kinh tế tri thức và toàn cầu hóa. Xây dựng và phát triển CNXH trong điều kiện một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền, bước đầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Xây dựng CNXH trong điều kiện cơ cấu xã hội - giai cấp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng có nhiều biến đổi đa dạng, nhanh chóng, phức tạp... Đó là những đặc điểm khách quan nổi bật không thể thoát ly hay xem nhẹ trong quá trình đổi mới, phát triển nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.

Tính quá độ là một đặc điểm khách quan nổi bật của con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đến nay, có mặt đang ở trình độ là định hướng XHCN, có khía cạnh còn ở trình độ thấp hơn. Công cuộc xây dựng, phát triển CNXH ở nước ta phải làm rất nhiều công việc phức tạp mang tính quá độ. Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng chủ nghĩa Mác là cần xác định rõ những công việc nào mà chúng ta đang làm để xây dựng CNXH, công việc mà ở nhiều nước đã làm cách đây hàng chục, thậm chí hàng trăm năm; đâu là những việc mà các nước tư bản phát triển đang thực hiện. Mặt khác, cần phải khẳng định những việc nào chúng ta đang làm là những công việc mà CNTB không làm và không thể làm được. Có việc không thể chần chừ, trì trệ, nhưng cũng không thể nôn nóng, vội vàng. Có việc phải đi tắt, đón đầu nhưng có việc không thể đốt cháy giai đoạn. Đấy là những điều cần phải đặc biệt lưu ý trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác ở nước ta cả trên phương diện nhận thức và thực tiễn.

Yêu cầu vận dụng chủ nghĩa Mác trong xây dựng CNXH ở nước ta phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế vận động khách quan của thời đại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, thực chất cũng là nhấn mạnh việc xây dựng CNXH ở nước ta có sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại. Bảo đảm quá trình vận dụng để xây dựng CNXH ở nước ta không những kế thừa được những thành tựu quý báu trong chiều sâu lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam mà còn tiếp thu những thành quả văn minh của nhân loại. Không những làm cho CNXH ở nước ta vừa mang lại những lợi ích thiết thực cho đông đảo nhân dân, mà còn bảo đảm chung sống hòa bình, hợp tác hữu nghị với thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, đi đến tận cùng giá trị của nhân dân và dân tộc tất yếu sẽ gặp gỡ và vươn lên tầm giá trị nhân loại một cách tự nhiên. Chính vì vậy, tư tưởng của chủ nghĩa Mác về CNXH đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là cơ sở khoa học cho việc nhận thức quá trình vận động và phát triển của CNXH hiện thực trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.

----------

Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị số 2 (38) - 2024

1 Dẫn theo: Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý (đồng chủ biên): Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.229-230.

2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t.4, tr.603.

3 Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng?, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr.34.

4 Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21.

5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.128.

6 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t.4, tr.232.