ThS VŨ THỊ CÚC
Học viện Chính trị khu vực IV
(TTKHCT) - Công tác dân tộc là một bộ phận quan trọng trong đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện tốt công tác này góp phần bảo đảm các dân tộc được bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Bài viết phân tích thực trạng thực hiện công tác dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp góp phần tăng cường hơn nữa công tác dân tộc của Tỉnh trong thời gian tới.
Bà Huỳnh Thị Diễm Ngọc, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu chỉ đạo hội nghị sơ kết công tác dân tộc và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số 6 tháng đầu năm 2023 (Nguồn:bandantoc.soctrang.gov.vn)
Công tác dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước và hội nhập quốc tế với những thời cơ và thách thức đan xen, việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
Sóc Trăng là tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số đông nhất trong vùng, dân số năm 2020 là 1.195.741 người, trong đó dân tộc thiểu số là 423.830 người, chiếm tỷ lệ 35,44% dân số toàn tỉnh. Dân số của đồng bào Khmer là 361.016 người, chiếm tỷ lệ 30,19%, đồng bào Hoa là 62.386 người, chiếm tỷ lệ 5,22%, còn lại 25 dân tộc khác là 428 người, chiếm tỷ lệ 0,036%1.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có những cải thiện đáng kể, niềm tin của đồng bào đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của Tỉnh cũng như của cả nước, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở đây vẫn còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo trong vùng dân tộc thiểu số vẫn còn cao, chất lượng y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ còn ở mức hạn chế, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về mất ổn định an ninh, chính trị… Xuất phát từ thực tế trên, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Sóc Trăng luôn coi việc thực hiện công tác dân tộc là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của Tỉnh.
1. Thực trạng thực hiện công tác dân tộc đối với đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Sóc Trăng thời gian qua
1.1. Kết quả đạt được
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện công tác dân tộc đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tỉnh Sóc Trăng đã triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các văn bản chỉ đạo, điều hành của Ủy ban Dân tộc về công tác dân tộc; tổ chức thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh đã chỉ đạo Ban Dân tộc phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng các chương trình, dự án, chính sách dân tộc, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Nhờ đó, công tác dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn Tỉnh đạt nhiều kết quả nổi bật:
Về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo: các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn Tỉnh được các cấp, các ngành triển khai thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Qua đó, góp phần giúp cho hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số từng bước cải thiện đời sống, phát triển kinh tế và vươn lên. Năm 2022, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 7,71%, trong đó những khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như khu vực I tăng 4,07% và khu vực III tăng 11,56%. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số liên tục giảm qua các năm. Tính đến năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giai đoạn 2016-2020 vùng dân tộc thiểu số là 3.295 hộ, chiếm tỷ lệ 2,85%, giảm 0,93% so với năm 2020. Trong đó, hộ nghèo dân tộc Khmer là 3.140 hộ, chiếm 3,13% (giảm 1% so với năm 2020); hộ nghèo dân tộc Hoa là 155 hộ, chiếm 1% (giảm 0,48% so với năm 2020). Tổng số hộ cận nghèo dân tộc thiểu số là 12.142 hộ, chiếm 10,48% (giảm 0,52% so với năm 2020). Hộ cận nghèo dân tộc Khmer là 11.560 hộ, tỷ lệ 11,53% (giảm 0,5% so với năm 2020); hộ cận nghèo dân tộc Hoa là 582 hộ, tỷ lệ 3,75% (giảm 0,6% so với năm 2020)2.
Hệ thống kết cấu hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được quan tâm, ưu tiên tập trung đầu tư, hệ thống các công trình thủy lợi, điện, nước cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của người dân. Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm giúp cho đồng bào ổn định thu nhập được quan tâm và đạt nhiều kết quả quan trọng. Năm 2022, toàn Tỉnh đã đào tạo nghề cho 16.637 người (vượt 3,98% so với kế hoạch); giải quyết việc làm cho 29.497 lao động (vượt 7,2% so với kế hoạch); trong đó, xuất khẩu lao động 228 người (vượt 3,6% so với kế hoạch). Ngoài ra, Tỉnh cũng hỗ trợ cho vay vốn tín dụng ưu đãi cho khoảng 8.735 hộ, để phục vụ nhu cầu sản xuất của đồng bào3.
Về văn hóa: bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số được giữ gìn và phát huy; các khu di tích văn hóa, lịch sử được quan tâm bảo tồn4. Các lễ hội truyền thống như: lễ Dâng y cà sa, tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, lễ Sene Đôlta, lễ hội Oóc – Om - Bóc được tổ chức long trọng, trang nghiêm theo nghi thức truyền thống, mang đậm bản sắc văn hoá của dân tộc; các lễ hội tôn giáo và tín ngưỡng dân gian được Đảng, chính quyền địa phương quan tâm chu đáo, được tổ chức vui tươi, an toàn, tiết kiệm và đúng quy định của pháp luật.
Đối với đồng bào Hoa, với đức tính chịu khó, tiết kiệm, cách làm ăn năng động, hiệu quả, đời sống của đồng bào ngày càng ổn định, phát triển và luôn gắn bó, hoà nhập với cộng đồng thông qua các lễ hội, tín ngưỡng dân gian như miếu, phủ thờ… Đồng thời, đồng bào rất tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, giúp nhau giảm nghèo, luôn gắn bó, đoàn kết, tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng ở địa phương.
Hiện nay, toàn Tỉnh có 109/109 xã có nhà văn hóa; 724/775 ấp, khóm có nhà sinh hoạt cộng đồng; 100% xã, phường, thị trấn có điện lưới quốc gia; 98% hộ dân tộc thiểu số có điện sử dụng; 100% xã, phường, thị trấn được phủ sóng phát thanh - truyền hình, đảm bảo phục vụ nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân5.
Về y tế: công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho đồng bào vùng dân tộc, vùng xa, vùng khó khăn tiếp tục được quan tâm và thực hiện tốt. Tính đến tháng 9/2022, đã có 267.730 lượt thẻ bảo hiểm y tế được cấp miễn phí cho 427.758 người là đồng bào dân tộc thiểu số, với tổng số tiền 178,561 tỷ đồng. Công tác khám, chữa bệnh cho đồng bào đạt 139.390 lượt, với chi phí bảo hiểm y tế là 63,345 tỷ đồng6. Hiện nay, tất cả các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tỉnh đều có trạm y tế và đều đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế. Tỷ lệ trạm y tế phường có bác sĩ phục vụ đạt 100% kế hoạch; Tổng số giường bệnh 1.700 giường/1.700 giường, đạt 100% kế hoạch; Tổng số bác sĩ là 625 bác sĩ/28 bác sĩ, tăng 22 lần so với kế hoạch7. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế dự phòng được tăng cường. Công tác tuyên truyền nâng cao ý thức phòng chống các loại dịch bệnh trên người, chủ động phòng chống dịch tích cực, vệ sinh môi trường, để bảo vệ sức khoẻ cho người dân cũng được đặc biệt chú trọng.
Về giáo dục và đào tạo: công tác giáo dục và đào tạo tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt. Các chế độ đối với cán bộ quản lý, giáo viên và chính sách đối với trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số luôn được thực hiện đầy đủ, kịp thời, theo đúng quy định. Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố đang tổng hợp dự trù nguồn kinh phí gửi Phòng Tài chính – Kế hoạch thẩm định, trình Ủy ban nhân dân thành phố xem xét, bố trí kinh phí để hỗ trợ kịp thời cho người trực tiếp dạy tiếng và chữ Khmer vào dịp hè; tiếng và chữ Hoa tại các trường ngoài hệ thống trường công lập trên địa bàn Tỉnh. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú tiếp tục được đầu tư, nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu dạy và học. Theo số liệu thống kê, toàn Tỉnh hiện có 10 trường phổ thông dân tộc nội trú với 102 lớp, gồm 3.409 học sinh; có 134 trường tổ chức dạy song ngữ Việt - Khmer, với 1.625 lớp, gồm 44.509 học sinh và 01 trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ. 04 trường phổ thông dạy song ngữ Việt - Hoa với 51 lớp, gồm 1.625 học sinh8. Năm 2022, có 2.655 học sinh dân tộc thiểu số đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông; 40 học sinh dân tộc thiểu số trúng tuyển vào trường Dự bị đại học; số tiền đã hỗ trợ cho 8.691 học sinh là 5.270.000.000 đồng9.
Về thực hiện chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số: tổng số người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn Tỉnh là 606 người. Đây là lực lượng đóng vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào. Để thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương đối với người có uy tín trong đồng bào, nhiều hoạt động ý nghĩa đã được tổ chức như thăm hỏi, tặng quà dịp lễ, tết, ốm đau; tổ chức hội nghị thông tin các chính sách có liên quan; tổ chức đi học tập, trao đổi kinh nghiệm… với tổng kinh phí thực hiện là 2.863.605.000 đồng10. Nhờ đó, tạo được sự an tâm, tin tưởng của người có uy tín đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó, tất cả những người có uy tín trong đồng bào đều tích cực tham gia tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những người có uy tín trong đồng bào dân tộc còn tích cực tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng các chính sách của địa phương, phản ánh kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng đến các cấp chính quyền, để kịp thời giải quyết.
Về ứng dụng khoa học và công nghệ: thực hiện Đề án Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2020 - 2025 theo Quyết định số 414/QĐ-TTg ngày 12/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả của Đề án như sau: đã thực hiện số hóa, chuẩn hóa, tạo lập cơ sở dữ liệu về dân tộc và thuê dịch vụ lưu trữ dữ liệu, đạt tỷ lệ 26,5%11. Bên cạnh đó, Tỉnh cũng đã triển khai nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong bảo quản, chế biến các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản. Việc ứng dụng khoa học công nghệ đã phục vụ tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhất là công nghệ số trong quản lý, điều hành công việc; sản xuất, kinh doanh; trong kết nối nhà sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu. Góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng một số giống cây trồng, vật nuôi, các mô hình sản xuất rau, cây ăn trái, thuỷ sản, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Xây dựng được một số nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý cho một số sản phẩm đặc sản và sản phẩm chủ lực của địa phương. Để tiếp tục thực hiện Đề án, Tỉnh đang tiếp tục triển khai các đề tài, dự án, tập trung vào các lĩnh vực như: nông nghiệp, giáo dục, y tế... phù hợp với điều kiện của địa phương, để góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.
Về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở: hệ thống chính trị cơ sở trong vùng đồng bào dân tộc ngày càng được kiện toàn. Chính sách tạo nguồn và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số thời gian qua đạt nhiều kết quả quan trọng. Tổng số cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tại các cơ quan hành chính, các đơn vị sự nghiệp công lập là 7.907 người, chiếm tỷ lệ 31,07%. Số cán bộ, công chức là lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh là 115 người, chiếm tỷ lệ 16,84%; cấp huyện là 218 người, chiếm tỷ lệ 20,29%; cấp xã là 73 người, chiếm tỷ lệ 11,9%. Đại biểu Quốc hội khóa XV là 04 người12. Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 có 604 đại biểu là người dân tộc thiểu số, trong đó: cấp tỉnh là 15 đại biểu, cấp huyện là 52 đại biểu, cấp xã là 537 đại biểu. Về trình độ: tiến sĩ 03 người, thạc sĩ 134 người, đại học 4.800 người, cao đẳng 1.347 người, trung cấp 1.552 người, có 71 trường hợp có tình độ sơ cấp và chưa qua đào tạo13.
Về bảo đảm an ninh, trật tự: tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Tỉnh nói chung và trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng tiếp tục ổn định. Các ngành chức năng đã tăng cường công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, đặc biệt là các điểm nóng về an ninh trật tự, tình hình thiên tai, dịch bệnh, môi trường... Duy trì công tác chỉ đạo chế độ trực sẵn sàng chiến đấu từ thành phố xuống đến các địa phương, bảo đảm lực lượng, phương tiện thông tin liên lạc thông suốt và đảm bảo quân số theo quy định, tập trung lực lượng triển khai đồng bộ các mặt công tác nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và những vấn đề phức tạp diễn ra, bảo vệ an toàn cho cuộc sống của đồng bào.
Công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội: năm 2023, lực lượng chức năng đã phát hiện và làm rõ 80 vụ có dấu hiệu tội phạm về trật tự xã hội. Công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự: tổ chức tiếp nhận và cấp căn cước công dân đến tuổi theo quy định cho 116.938/125.306 trường hợp (đạt tỷ lệ 93,3%)14. Trong những năm qua, tình hình an ninh trật tự, tôn giáo, tà giáo, đạo lạ, di cư tự do, buôn bán ma túy, phụ nữ, trẻ em, tội phạm khác... vùng đồng bào dân tộc thiểu số cơ bản ổn định.
Nhờ thực hiện tốt công tác dân tộc nên tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục phát triển theo hướng tích cực; đời sống của đồng bào ngày càng được bảo đảm, ổn định; kết cấu hạ tầng vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số được tập trung đầu tư, xây dựng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân; hệ thống chính trị cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Đồng bào chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; an tâm lao động sản xuất, tích cực tham gia các phong trào do địa phương phát động; tạo được niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố.
1.2. Một số khó khăn, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh Sóc Trăng, công tác dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn Tỉnh vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định, cụ thể:
Một là, các mô hình kinh tế của hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn nhỏ lẻ, hiệu quả chưa cao. Công tác giảm nghèo trong vùng dân tộc thiểu số chưa bền vững. Khi tiêu chí xác định hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều thay đổi thì số hộ nghèo vùng dân tộc lại tăng so với các năm trước đó. Năm 2022, số hộ nghèo của đồng bào Khmer 7.122 hộ, chiếm 7,01% (tăng 3,88% so với năm 2021). Hộ nghèo dân tộc Hoa 339 hộ, chiếm 2,05% (tăng 1,05% so với năm 2021); hộ cận nghèo 704 hộ, chiếm 4,26% (tăng 0,51% so với năm 2021)15. Nhìn chung, thực trạng phát triển kinh tế và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khoảng cách khá xa so với mặt bằng chung của Tỉnh, cũng như của cả nước.
Hai là, nhiều vấn đề về xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. Mặc dù tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt tỷ lệ cao nhưng tỷ lệ sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn từ công trình cấp nước tập trung mới chỉ đạt 59%; các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến buôn bán ma túy, qua lại biên giới trái phép,… vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội; trình độ dân trí của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp.
Ba là, công tác thể chế hóa các văn bản của Trung ương đối với đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, như: việc hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển, theo Luật Đầu tư công đòi hỏi phải mở mã số dự án, phải có quyết định phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật. Đối với nội dung hỗ trợ đất ở, đất sản xuất rất khó để lập hồ sơ báo cáo kinh tế kỹ thuật. Do đó, địa phương khó triển khai thực hiện; công tác tham mưu triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 còn hạn chế. Việc triển khai chính sách vay vốn tín dụng khó triển khai thực hiện, do phần lớn đối tượng đã vay vốn theo các chương trình, chính sách khác trước đây, đến nay chưa đáo nợ nên gặp khó khăn trong việc triển khai vốn tín dụng trong giai đoạn này…
Bốn là, công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao ý thức tự lực, tự cường, thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh sản xuất trong đồng bào dân tộc thiểu số tuy có chuyển biến nhưng hiệu quả chưa cao.
Những hạn chế, khó khăn trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Cơ chế quản lý thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số ban hành chậm nên gặp không ít khó khăn trong công tác tham mưu, triển khai thực hiện; (2) Sự phối hợp giữa một số ngành, địa phương trong việc xây dựng kế hoạch, giải pháp cụ thể để tập trung thực hiện các chương trình, đề án của Trung ương và của tỉnh còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; (3) Đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc của tỉnh chưa có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm trong công tác tham mưu, xây dựng chính sách; (4) Công tác tuyên truyền chính sách dân tộc tại một số địa phương chưa đi vào chiều sâu, chưa nêu rõ lợi ích thực sự của chính sách đối với người dân vùng dự án, nhằm khuyến khích tinh thần của người dân trong việc tham gia thực hiện chính sách một cách có hiệu quả, đảm bảo mục tiêu đề ra.
2. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Sóc Trăng trong thời gian tới
Thứ nhất, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Thời gian qua, công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được triển khai và cũng có những bước chuyển biến nhất định. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, cần tăng cường và đổi mới hơn nữa nội dung, phương thức tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở vùng đồng bào dân tộc. Chú trọng phát huy vai trò của các vị chức sắc, chức việc các tôn giáo, người có uy tín trong đồng bào dân tộc tham gia công tác tuyên truyền. Lồng ghép các nội dung tuyên truyền trong các dịp lễ, hội của đồng bào để đạt hiệu quả.
Thứ hai, phát triển kinh tế gắn với giảm nghèo bền vững, từng bước nâng cao mức sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, giảm nghèo nhanh và bền vững; trong đó, tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất và đời sống cho đồng bào. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình sản xuất kinh tế, đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, kịp thời giải quyết những khó khăn, bức xúc của đồng bào.
Tổ chức thực hiện tốt các chính sách dân tộc gắn với việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, thực hiện tốt việc công khai các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư... để đồng bào biết và tham gia quản lý, giám sát, góp ý; tăng cường kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu của từng chính sách để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
Tổ chức lồng ghép các chương trình, dự án đang triển khai trên địa bàn để đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các xã đặc biệt khó khăn, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở vật chất giáo dục, văn hóa, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn phục vụ đời sống, sản xuất, tạo điều kiện cơ bản để người dân đầu tư sản xuất, giao thương, kết nối thị trường phát triển.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách về giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số
Chính sách hỗ trợ đối với con em dân tộc thiểu số và giáo viên công tác ở vùng đặc biệt khó khăn; các chế độ, chính sách trong hệ thống trường dân tộc nội trú, chính sách đặc thù hỗ trợ người dạy tiếng và chữ Khmer vào dịp hè; tiếng và chữ Hoa tại các trường ngoài hệ thống các trường công lập trên địa bàn Tỉnh; tiếp tục chú trọng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy song ngữ (Khmer hoặc Hoa) là người dân tộc ở các cấp học; duy trì tốt việc dạy tiếng dân tộc theo Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Chính phủ.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện tốt công tác giữ gìn, bảo tồn, tôn vinh và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số
Thực hiện tốt công tác quản lý và tổ chức lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia sinh hoạt, tạo không khí phấn khởi, góp phần bảo tồn văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là tổ chức tốt các kỳ lễ hội Oóc Om Bóc - Đua ghe Ngo. Tập trung khai thác, phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát triển văn hóa của các dân tộc trong Tỉnh.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là tại các địa bàn trọng điểm. Chỉ đạo các ngành chức năng tăng cường đi công tác cơ sở để chủ động tuyên truyền, vận động, giáo dục người dân nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, tích cực tham gia phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc ở địa phương, nắm bắt tình hình diễn biến tư tưởng và nhu cầu phát sinh mới, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc trong đồng bào dân tộc thiểu số, hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài, vượt cấp. Thường xuyên tổ chức đối thoại với công dân trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là những vụ khiếu kiện đông người liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc.
Thứ sáu, cần tăng cường lực lượng cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đến công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Tỉnh cần thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đãi ngộ theo quy định và kiến nghị thêm những chính sách ưu đãi cho đội ngũ cán bộ nhận nhiệm vụ tại những vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống; tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc.
Thứ bảy, các cơ quan lãnh đạo của Tỉnh cần sớm xây dựng và ban hành các văn bản quy định thuộc thẩm quyền
Tỉnh quan tâm các nội dung liên quan đến cơ chế phân cấp quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia theo quy định tại Khoản 2 Điều 40 Nghị định 27/2022/NĐ-CP; quy định về cơ chế quay vòng một phần vốn hỗ trợ bằng tiền hoặc hiện vật để luân chuyển trong cộng đồng theo quy định tại điểm c, Khoản 7 Điều 22 Nghị định số 27/2022/NĐ-CP thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân tỉnh; quy định định mức bình quân diện tích đất sản xuất để làm cơ sở xác định hộ thiếu đất sản xuất; quy chế phối hợp giữa các ngành, địa phương trong việc xây dựng kế hoạch, giải pháp để tập trung thực hiện các chương trình, đề án đặc thù trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Kết luận
Có thể nói, trong những năm qua mặc dù còn gặp không ít những khó khăn trong quá trình triển khai, thực hiện công tác dân tộc đến với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, công tác dân tộc của Tỉnh đã phát huy được hiệu quả, đời sống của đồng bào ngày càng được cải thiện, nâng cao. Đồng bào các dân tộc thiểu số trong Tỉnh càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, ra sức xây dựng nông thôn mới, đoàn kết giữ gìn an ninh trật tự, chung tay xây dựng và phát triển kinh tế, đời sống văn hoá, vươn lên thoát nghèo bền vững, xây dựng quê hương ngày một phát triển, giàu đẹp, văn minh và hiện đại.
---------
Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị số 2 (38) - 2024
1 Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng: Báo cáo số 306/BC-UBND ngày 12/12/2022 tình hình triển khai, kết quả thực hiện một số chính sách giáo dục, đào tạo trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số tại tỉnh Sóc Trăng, Sóc Trăng, 2022.
2, 4, 7&9, 10, 11, 16 Ban Dân tộc: Báo cáo số 249/BC-UBND ngày 5/12/2022 tổng kết công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc năm 2022, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023, Sóc Trăng, 2022, tr.2, 8, 4, 9, 7, 3.
3 Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng: Báo cáo số 16/BC-UBND ngày 19 /1/2022 kết quả thực hiện công tác dân tộc năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2022, Sóc Trăng, 2022, tr.1.
5 Toàn tỉnh có 10 di tích của dân tộc Khmer và 04 di tích của dân tộc Hoa; 06 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
6, 12, 14 Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng: Báo cáo số 100/BC-UBND ngày 24/4/2023 việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/2020/QH14 của Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2030, Sóc Trăng , 2023, tr.1-2, 3, 7.
8&15 Ủy ban nhân dân thành phố Sóc Trăng: Báo cáo số 570/BC-UBND ngày 7/12/2023 tổng kết công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2024, Sóc Trăng, 2023, tr.6.
13 Trong đó có 02 đại biểu người Khmer, 02 đại biểu người Hoa.