TS LÊ THANH HÒA
Viện Kinh tế - Xã hội thành phố Cần Thơ
ThS NGUYỄN MINH TRÍ
Trường Chính trị thành phố Cần Thơ
(TTKHCT) - Thời gian qua, Cần Thơ đã triển khai nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn thành phố. Trên cơ sở phân tích quan điểm của Đảng và thực trạng phát triển khoa học và công nghệ để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Cần Thơ, bài viết rút ra những bài học kinh nghiệm và gợi mở đối với việc hoạch định chính sách trong thời gian tới.
Cần Thơ tổ chức tọa đàm khoa học “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học công nghệ mới và đổi mới sáng tạo tại thành phố Cần Thơ”_Nguồn: Tạp chí Doanh nghiệp và Tiếp thị điện tử
Những năm qua, phát triển khoa học và công nghệ luôn được thành phố Cần Thơ quan tâm. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ của thành phố phát triển tương đối đồng bộ, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc xây dựng, ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh ở địa phương. Chất lượng hoạt động khoa học và công nghệ từng bước được nâng lên, tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách chưa tạo được động lực để phát huy hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ1; hợp tác với các cơ quan khoa học và công nghệ Trung ương đóng trên địa bàn thành phố chưa hiệu quả.
Do đó, để phát triển thành phố Cần Thơ thành trung tâm kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long thì phải làm rõ thực trạng phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương này thời gian qua.
1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ
Bước sang thế kỷ XXI, cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ ngày càng được quan tâm, chú trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế”2. Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, Đảng xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo”3. Tiếp đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới”4.
Thể chế hóa chủ trương của Trung ương Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã hiến định: “Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (Điều 62)5. Trên cơ sở đó, Điều 4 của Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 quy định về nhiệm vụ của hoạt động khoa học và công nghệ: “1. Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng con người mới Việt Nam; kế thừa và phát huy giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hóa, khoa học của thế giới. 2. Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, phương pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người; kịp thời dự báo, phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai”6.
Nhằm hiện thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, Thành ủy Cần Thơ đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, như: Chương trình số 30-CTr/TU ngày 18/01/2013 nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ tại địa phương; Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 01/8/2016 về phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố; Chương trình số 52-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bên cạnh đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã xác định ba khâu đột phá, trong đó khâu đột phá thứ ba là “Tận dụng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đổi mới sáng tạo, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; lấy doanh nghiệp làm trung tâm của đổi mới ứng dụng và chuyển giao công nghệ; xây dựng thành phố thông minh, tăng trưởng xanh”7.
2. Thực trạng phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Cần Thơ
2.1. Những thành tựu cơ bản
Thứ nhất, các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ diễn ra toàn diện trên các lĩnh vực. Trong nông nghiệp, tập trung vào các nhiệm vụ cải thiện, phát triển các sản phẩm chủ lực của thành phố (lúa gạo, cây ăn trái, thủy sản). Trong y tế, công nghệ sinh học, nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật mới, mô hình mới trong điều trị, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trong phát triển du lịch, nghiên cứu khai thác, phát triển các mô hình du lịch phù hợp với lợi thế của địa phương. Trong công nghệ chế tạo và môi trường, nghiên cứu thiết kế, chế tạo các thiết bị, công nghệ mới, vật liệu mới phục vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Riêng năm 2024, thành phố đã triển khai mới 14 nhiệm vụ khoa học và công nghệ (vượt 40% chỉ tiêu được giao), nghiệm thu 10 nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đạt 100% chỉ tiêu được giao)8.
Thứ hai, xây dựng cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ: một là, về thu hút nhân lực. Tính đến hết năm 2024, số lượng cán bộ khoa học và công nghệ, nghiên cứu và phát triển vượt mức 11 người trên một vạn dân9; hai là, về thu hút các tổ chức, doanh nghiệp. Năm 2024, thành phố đã thực hiện hỗ trợ về văn phòng, máy móc thiết bị cho 7 doanh nghiệp tham gia ươm tạo tại Vườn ươm công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc để doanh nghiệp tiến hành thí nghiệm mẫu; thông qua Văn phòng Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc tại Việt Nam (KOICA), mời chuyên gia Hàn Quốc thuộc lĩnh vực cơ khí và thủy sản hỗ trợ Vườn ươm thực hiện công tác hỗ trợ doanh nghiệp; hỗ trợ sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ hoàn thiện sản phẩm Gạch không nung từ tro rác sinh hoạt và sản phẩm sữa dừa sáp “cocovimilk” của Trường Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ10. Thời gian qua, thành phố đã hỗ trợ cho hơn 1.000 cơ quan, doanh nghiệp của thành phố và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong hoạt động thử nghiệm, kiểm định và hiệu chuẩn. Năm 2024, Sở Khoa học và Công nghệ thành phố thực hiện công tác kiểm tra chất lượng, sản phẩm hàng hóa trong sản xuất với số phương tiện được kiểm định là 15.000 phương tiện, hiệu chuẩn 8.500 phương tiện; thử nghiệm 16.050 mẫu với 100.050 chỉ tiêu về các lĩnh vực: môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng xăng dầu11.
Thứ ba, công tác đầu tư hạ tầng, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật khoa học và công nghệ được chỉ đạo thực hiện chặt chẽ. Qua đó phát huy tiềm năng, thế mạnh của thành phố về lĩnh vực khoa học và công nghệ; thúc đẩy liên kết và hình thành được nhiều vùng sản xuất lúa hàng hóa, vùng trồng rau màu, cây ăn trái và chăn nuôi thủy sản theo hướng tập trung, quy mô lớn, thuận lợi cho ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với các nhà khoa học Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch điều tra khảo sát, thực hiện tính toán tốc độ đổi mới công nghệ, tổng sản phẩm công nghệ cao so với tổng giá trị sản phẩm trong năm 2024; đồng thời, phối hợp thu thập số liệu từ Cục Thống kê, Cục Hải quan, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội... và điều tra khảo sát trực tiếp từ doanh nghiệp sản xuất tại các khu công nghiệp, quận huyện trên địa bàn. Nhiều chỉ tiêu về khoa học và công nghệ của thành phố đạt mức cao như: chỉ tiêu tốc độ đổi mới công nghệ máy móc thiết bị ước đạt 14,025% (chỉ tiêu kế hoạch: 12 - 13%); tổng sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản phẩm ước đạt 33,55% (chỉ tiêu kế hoạch: 33 - 34%)12.
Thứ tư, hoạt động liên kết, hợp tác về khoa học và công nghệ giữa thành phố với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương trong cả nước có sự chuyển biến tích cực. Năm 2024, thành phố đã tổ chức thành công Hội thảo khoa họcPhát triển đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trình độ quốc tế tại thành phố Cần Thơ với nội dung liên quan đến nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trình độ quốc tế tại thành phố Cần Thơ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Hội thảo thu hút hơn 150 đại biểu đến từ các sở, ban, ngành, viện, trường, liên hiệp hội và tập đoàn quốc tế trên địa bàn thành phố Cần Thơ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long13. Đồng thời, thành phố Cần Thơ tổ chức thành công nhiều sự kiện khoa học và công nghệ quốc tế, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học, mở rộng các kênh hợp tác, giới thiệu kinh nghiệm và mô hình phát triển khoa học và công nghệ của các nước. Qua đó, xây dựng các mối quan hệ hợp tác và thu hút các dự án tài trợ như: Chương trình đào tạo điện tử và vi mạch bán dẫn giữa Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ, Trường Bách Khoa - Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ và Công ty Cổ phần Giáo dục quốc tế Sun Edu nhằm triển khai tổ chức hiệu quả chương trình đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và mở rộng nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực điện tử và vi mạch bán dẫn; Chợ công nghệ và thiết bị chuyên ngành Nông nghiệp Cần Thơ 2024 - Tech4Agri Can Tho 2024 giới thiệu hơn 300 công nghệ, thiết bị và sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm sản xuất, thu hoạch, bảo quản và chế biến sau thu hoạch14.
2.2. Những hạn chế chủ yếu
Bên cạnh những thành tựu, công tác phát triển khoa học và công nghệ của thành phố còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị cho hoạt động khoa học và công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ. Máy móc, trang thiết bị của các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ còn nghèo nàn và lạc hậu, chưa được đầu tư kịp thời. Năng lực chuyên sâu của các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và thực hiện vai trò đầu mối trung tâm khoa học và công nghệ của vùng.
Thứ hai, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong đổi mới công nghệ, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo chưa đủ mạnh để thu hút các nguồn vốn của xã hội đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Thứ ba, chưa phát huy hết tiềm lực khoa học và công nghệ hiện có, đặc biệt là tập hợp và kết nối đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, huy động nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện xã hội.
Thứ tư, hoạt động chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn còn nhiều bất cập; việc khai thác, áp dụng sáng chế để thương mại hóa còn hạn chế. Liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với viện, trường và cơ quan quản lý nhà nước trong đổi mới, ứng dụng, chuyển giao và phát triển công nghệ còn nhiều hạn chế.
Thứ năm, mặc dù đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao ngày càng đông đảo, nhưng vẫn còn thiếu cán bộ tâm huyết và tận tụy. Chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ khoa học và công nghệ chưa tương xứng, nên chưa thu hút và giữ chân được nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc tại các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác các trang thiết bị được đầu tư.
3. Một số kinh nghiệm và gợi mở từ quá trình phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ
3.1. Một số kinh nghiệm phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ
Thứ nhất, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên đẩy mạnh tuyên truyền, lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân đã góp phần quán triệt, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của khoa học và công nghệ trong phát triển ngành, đơn vị nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, góp phần cùng với thành phố đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, quan tâm nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách khả thi, phù hợp là tiền đề để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tham gia nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ hiện đại, đồng bộ; đồng thời, phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao là cơ sở để tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ; sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư, ưu tiên các chương trình nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ để khai thác tiềm năng và lợi thế của thành phố giúp tạo động lực cho việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng có trọng điểm và mang tính thực tiễn, đáp ứng nhu cầu phát triển thành phố; tạo sự gắn kết giữa nghiên cứu và ứng dụng, giữa đơn vị nghiên cứu với doanh nghiệp, triển khai ứng dụng vào sản xuất và đời sống; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thực hiện các dự án khoa học và công nghệ có tính ứng dụng cao.
3.2. Một số gợi mở đối với việc hoạch định chính sách phát triển khoa học và công nghệ thời gian tới
Thứ nhất, thúc đẩy đổi mới tư duy từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp sang chủ động sáng tạo, vươn lên làm chủ công nghệ; chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế công - nông nghiệp sang nền kinh tế số, dựa trên nền tảng tri thức.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đồng bộ với chính sách khác có liên quan; tập trung vào các cơ chế, chính sách tạo môi trường thuận lợi, hỗ trợ tốt nhất cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; các chính sách phát triển thị trường khoa học và công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Thứ ba, quan tâm đầu tư phát triển hạ tầng khoa học và công nghệ, đổi mới trang thiết bị nghiên cứu khoa học hiện đại cho các phòng nghiên cứu, thí nghiệm tại các viện, trường, trung tâm, đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ; phát triển hệ thống thông tin, trang thiết bị thông tin hiện đại, mở rộng mạng lưới thông tin phục vụ các hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đổi mới sáng tạo, ươm tạo công nghệ; thúc đẩy chuyển đổi số.
Thứ tư, tăng cường phối hợp với các chuyên gia, nhà khoa học và các viện, trường, doanh nghiệp vận hành và khai thác cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật đã được đầu tư cho các đơn vị; phát huy trí tuệ của lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ chất lượng cao của các viện, trường.
Thứ năm, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ; tạo điều kiện để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển tài năng và hưởng lợi ích thỏa đáng với giá trị lao động sáng tạo; hỗ trợ cho cán bộ khoa học và công nghệ tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tham dự các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế có liên quan đến các vấn đề thực tiễn đặt ra.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với các quốc gia có trình độ khoa học và công nghệ cao; nghiên cứu, tìm kiếm công nghệ phù hợp để chuyển giao ứng dụng trong các lĩnh vực như: xây dựng đô thị thông minh; phát triển nông nghiệp công nghệ cao; công nghệ cơ khí, tự động hóa, vật liệu mới; công nghệ thông tin; công nghệ sinh học; y tế kỹ thuật cao; ứng phó với biến đổi khí hậu.
Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Cần Thơ không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của cả nước. Thời gian qua, công tác phát triển khoa học và công nghệ của thành phố đạt được nhiều kết quả đáng được ghi nhận. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế nhất định, cần có những giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh công tác này trong thời gian tới, từ việc thúc đẩy đổi mới tư duy; hoàn thiện chính sách về khoa học và công nghệ; quan tâm đầu tư hạ tầng khoa học và công nghệ; tăng cường phối hợp với các chuyên gia, nhà khoa học và các viện, trường, doanh nghiệp; tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đến việc tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
----------
Bài đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học chính trị số 2 (44) - 2025
1 Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ: Báo cáo số 165/BC-UBND ngày 20/6/2023 về kế hoạch khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và dự toán ngân sách khoa học và công nghệ năm 2024, tr.13.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.78.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.118.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/Uploads/2025/1/7/2/NQ-57-TW-BCT.pdf, truy cập ngày 22/12/2024.
5 Tô Văn Hòa: Đối chiếu Hiến pháp năm 2013 và Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.86 - 87.
6 Quốc hội: Luật khoa học và công nghệ năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2018, 2022), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr.11 - 12.
7 Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Cần Thơ: Văn kiện Đại hội đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ 14, nhiệm kỳ 2020 - 2025, https://thanhuycantho.vn/chi-tiet-van-ban/vb_id/630, truy cập ngày 22/12/2024.
8, 9, 10, 11, 12, 13, 14 Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ: Báo cáo số 66/BC-SKHCN ngày 10/01/2025 về kết quả hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2024 và kế hoạch năm 2025.