PGS, TS NGUYỄN XUÂN PHONG
Học viện Chính trị khu vực IV
TS PHÍ THỊ LAN PHƯƠNG
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội
(TTKHCT) - Giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước là mục tiêu của bất kỳ đảng chính trị nào. Sau khi ra đời, các đảng chính trị đều hướng đến đấu tranh giành quyền lực và trở thành đảng cầm quyền. Giống như nhiều đảng chính trị trên thế giới, ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành đảng cầm quyền. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ năm 1945 đến nay, do có sự thay đổi phương thức cầm quyền khoa học, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nên Đảng luôn giữ vững được vị trí, vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Tuy nhiên, trong lãnh đạo Đảng vẫn còn một số hạn chế: “Chưa xác định rõ nội dung, phương thức cầm quyền. Chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội” . Do đó, nghiên cứu một cách nghiêm túc, chỉ rõ nguyên nhân, những vấn đề đặt ra và đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm đổi mới, hoàn thiện phương thức cầm quyền của Đảng trong thời gian tới là yêu cầu cấp thiết.
1. Phương thức cầm quyền của Đảng
Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổng thể các hình thức, phương pháp, quy chế, quy định, quy trình, nguyên tắc làm việc… mà Đảng ta sử dụng để tác động vào các tổ chức trước hết là nhà nước, nhằm thực hiện ý chí chính trị, quyền và trách nhiệm của Đảng; quyền làm chủ của nhân dân để thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, nghị quyết của Đảng nhằm phát triển đất nước trong từng thời kỳ lịch sử. Phương thức cầm quyền của Đảng ta bị chế định bởi triết lý cầm quyền, mô hình hệ thống chính trị và mục tiêu cầm quyền.
Về triết lý cầm quyền của Đảng. Thứ nhất, Điều 4 Hiến pháp (năm 2013) xác định: Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Có thể nói rằng: dựa vào dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân trong quá trình thực hiện vai trò của một đảng cầm quyền, tự đặt tổ chức và hoạt động của mình trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu sự kiểm soát và giám sát của nhân dân là triết lý cầm quyền quan trọng hàng đầu của Đảng. Thứ hai, Đảng kiên định giữ vững vị thế cầm quyền, kiên quyết không nhượng bộ, chia sẻ địa vị này. Điều này tuyệt nhiên do Đảng không có lợi ích riêng mà tất cả vì lợi ích của nhân dân. Thứ ba, trên phương diện tổ chức, công việc quan trọng của Đảng là đưa đảng viên nắm giữ vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước để lãnh đạo. Thứ tư, một trong những sức mạnh mềm, tiềm tàng của Đảng là sức mạnh văn hóa, đạo đức.
Về mô hình hệ thống chính trị. Mô hình hệ thống chính trị nhất nguyên, một đảng duy nhất cầm quyền. Về thiết chế tổng thể, Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; nhân dân là chủ thể, là trung tâm để thiết kế mô hình tổ chức, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Về mục tiêu cầm quyền: ngay từ khi ra đời, Đảng là tổ chức lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam tiến hành đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Khi giành được chính quyền, Đảng sử dụng chính quyền, lãnh đạo chính quyền để xây dựng chế độ xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa.
2. Đặc điểm, nội dung phương thức cầm quyền của Đảng
2.1. Một số đặc điểm phương thức cầm quyền của Đảng
Nếu như đặc điểm về bản chất và mục đích của Đảng quy định đặc điểm của quá trình giành quyền lực chính trị, thì đó cũng là cái tạo nên đặc điểm có tính nguyên tắc về phương thức cầm quyền của Đảng.
Thứ nhất, phương thức cầm quyền có tính nguyên tắc của Đảng là không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập - Đảng duy nhất cầm quyền. Phấn đấu vì chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu bất biến. Điều đó, về nguyên tắc, chỉ do Đảng cầm quyền; Đảng không chia sẻ quyền lực cho bất cứ đảng chính trị nào khác. Đảng trở thành lực lượng chính trị duy nhất cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội, không có đối thủ cạnh tranh, không có thời hạn quy định. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn là lực lượng chính trị tiên phong và đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Đảng là chính đảng duy nhất giữ vai trò cầm quyền. Đây là điều kiện thuận lợi để Đảng thực hiện chức năng, nhiệm vụ cầm quyền của mình. Thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thành quả xây dựng và phát triển chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành quả của sự hy sinh, phấn đấu của Đảng và của toàn dân tộc. Đòi hỏi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, để bảo đảm dân chủ trong cầm quyền và lãnh đạo của đảng như một số luận điệu thù địch nêu lên chỉ là lý luận lừa bịp, muốn thủ tiêu vai trò duy nhất cầm quyền và lãnh đạo chính đáng của Đảng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Giai cấp nắm quyền thống trị chính trị trong tay mình, thì đã nắm quyền đó với ý thức là chỉ một mình nắm”1. Có thể thấy rằng, thắng lợi hay thất bại của các đảng phái trong thể chế lưỡng đảng, đa đảng luôn gắn với nhiệm kỳ bầu cử, thậm chí hoán đổi nhau địa vị cầm quyền. Còn trong thể chế một đảng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội, mất địa vị cầm quyền của Đảng đồng nghĩa với thay đổi bản chất chế độ. Mất vai trò lãnh đạo của Đảng còn gây hệ lụy cho độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, vì Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang. Vì vậy, giữ vững địa vị cầm quyền của Đảng phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ cũng như các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch từ bên ngoài. Tuy nhiên, duy nhất cầm quyền, trong Đảng dễ phát sinh các bệnh chủ quan, duy ý chí, quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, áp đặt... Đây là những bệnh rất nguy hiểm đối với đảng cầm quyền, làm giảm sút sức mạnh, uy tín, thanh danh của Đảng; làm Đảng xa rời nhân dân.
Khi nói Đảng ta là Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh vị thế duy nhất nắm quyền lực nhà nước, mà còn nhấn mạnh vị thế lãnh đạo Nhà nước, cả hệ thống chính trị và xã hội của Đảng. Đảng cầm quyền trong ý nghĩa này đã hàm chứa cả đảng lãnh đạo. Điều đó không có nghĩa, quyền lực của Đảng là “siêu quyền lực”, đứng trên quyền lực nhà nước. Đảng và Nhà nước là hai chủ thể quyền lực khác nhau trong một thể chế chính trị - xã hội. Quyền lực của Đảng là quyền lực của giai cấp - một lực lượng trong xã hội; đây là quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân - đây là quyền lực tổ chức, phục vụ, kiến tạo phát triển đất nước. Sự duy nhất cầm quyền của Đảng phải được nhân dân thừa nhận, lựa chọn và được ghi nhận trong Hiến pháp (tính chính đáng chính trị). Đảng cầm quyền thông qua Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan công quyền, không tự biến mình thành Nhà nước. Nếu quyền lực Đảng đồng nhất với quyền lực nhà nước thì xã hội sẽ không còn dân chủ, mà trở thành độc tài.
Phương thức cầm quyền đó cũng không phải là phương thức “toàn trị” như có người đã gán cho Đảng. Đảng duy nhất cầm quyền là để giữ vững mục đích chính trị của Đảng, của nhân dân. “Đảng không toàn ý (độc quyền) nắm quyền và “cai trị”, “cưỡng ép” Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội làm theo ý chí chủ quan của Đảng. Đảng cầm quyền bằng ý chí và nguyện vọng của nhân dân (ghi trong Hiến pháp) và lãnh đạo cả hệ thống chính trị thực hiện mục đích của nhân dân và cũng là của Đảng”2.
Thứ hai, Đảng không chỉ là đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của dân tộc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”3, đồng thời những cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ quản lý trong bộ máy nhà nước đều chỉ là những người được nhân dân “ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân. Hiến pháp nước ta đã quy định: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là của nhân dân, Đảng ta cầm quyền đó chính là sự giao phó của nhân dân cho Đảng. Chính vì thế trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi cán bộ và đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”4. Do vậy, ở Việt Nam, Đảng nắm chính quyền cũng tức là nhân dân nắm chính quyền, bởi Đảng chỉ là lực lượng tiêu biểu, đại diện cho toàn dân nắm chính quyền. Nó khác biệt với các đảng chính trị trong thể chế đa đảng chỉ đại diện cho lợi ích của một nhóm, tập đoàn lợi ích nhất định. Nó cũng khác với các đảng cộng sản ở nhiều nước trên thế giới chỉ đại diện cho lợi ích giai cấp công nhân, không đại diện cho lợi ích dân tộc nên không có ảnh hưởng xã hội rộng rãi. Đặc điểm nêu trên làm cho tính dân tộc và tính xã hội của Đảng rất cao. Bên cạnh kiên định bản chất giai cấp công nhân, Đảng còn hóa thân vào bộ máy nhà nước, thực hiện trách nhiệm cầm quyền sẽ có sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân, giữa ý thức chính trị và ý thức pháp luật, giữa chức năng thống trị về chính trị và chức năng xã hội.
Thứ ba, Đảng giành chính quyền từ lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia, thiết lập nhà nước dân tộc. Đảng giành được địa vị cầm quyền thông qua cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, quyết liệt chống giặc ngoại xâm và các thế lực thù địch trong nước, quốc tế. Nó khác với nhiều đảng chính trị trên thế giới, nắm chính quyền từ cạnh tranh nghị trường hoặc đảo chính quân sự, mà bản chất là dịch chuyển địa vị cầm quyền từ tập đoàn này sang tập đoàn khác, không đại diện cho lợi ích quốc gia dân tộc, không gánh vác trách nhiệm của đông đảo nhân dân. Trách nhiệm cầm quyền của Đảng được lịch sử phó thác theo quy luật chọn lọc, do tương quan lực lượng chính trị đầu thế kỷ XX chi phối, khi mà các đảng chính trị khác không đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, thoái lui trước sự đàn áp, khủng bố của chủ nghĩa thực dân, thậm chí đầu hàng và phản bội lợi ích dân tộc. Đặc điểm này quy định tính chính đáng của Đảng được xác lập ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi gắn với sự nghiệp khôi phục độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
2.2. Nội dung phương thức cầm quyền của Đảng
Giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có quan hệ mật thiết với nhau vừa có sự tương đồng, vừa có sự khác biệt. Tương đồng ở chỗ: cả phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền đều có cùng một chủ thể là Đảng; trong điều kiện có chính quyền, đều tác động tới các đối tượng là Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; cùng nhằm mục tiêu cao nhất là thực hiện thắng lợi cương lĩnh, chiến lược, đường lối, mục tiêu chính trị của Đảng; đều phải sử dụng các phương pháp tư tưởng, hành chính, tổ chức, kiểm tra, giám sát, nêu gương. Khác biệt ở chỗ: phương thức cầm quyền chú trọng việc chỉ đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách và định hướng hoạt động của Nhà nước. Đảng nắm công tác tổ chức, cán bộ của Nhà nước bằng việc định hướng kiện toàn tổ chức và đưa cán bộ, đảng viên vào nắm giữ quyền lực và trực tiếp điều hành, thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước. Cùng với các phương pháp dân chủ, tuyên truyền, thuyết phục, vận động, Đảng sử dụng quyền lực và các nguyên tắc để tác động, chi phối hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, phương thức cầm quyền thực chất là phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng trong điều kiện có chính quyền, kể cả khi là lực lượng duy nhất cầm quyền, nên sự phân biệt giữa phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo chỉ là tương đối.
Trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết và thực tiễn hoạt động lãnh đạo, cầm quyền, có thể xác định phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay bao gồm những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng cầm quyền bằng công tác tư tưởng.
Đảng thông qua các tổ chức trong các cơ quan nhà nước, các thiết chế chính trị - xã hội để tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý luận, thuyết phục tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với quần chúng. Đảng không ngừng nâng cao trình độ lý luận, khoa học, công nghệ, nghiệp vụ công tác cho cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Đảng thực hiện phương thức cầm quyền bằng hệ tư tưởng, lý luận khoa học để xác định đúng đắn đường lối, chủ trương chiến lược, sách lược cầm quyền. Phương thức này là cơ sở để Nhà nước cụ thể hóa, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách cầm quyền của Đảng trong hoạt động thực tiễn và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nếu không dựa trên tư tưởng, lý luận khoa học, Đảng sẽ vấp phải những sai lầm, khuyết điểm và để lại những hậu quả nặng nề cho nhân dân, cho chế độ.
Thứ hai, Đảng cầm quyền thông qua tổ chức mô hình nhà nước thống nhất quyền lực.
Thiết kế mô hình tổ chức nhà nước thống nhất quyền lực phù hợp với mô hình cấu trúc Một đảng duy nhất cầm quyền, người ngoài đảng tham chính, chính đáng hóa quyền lực chính trị trong quyền lực công từ ghi nhận về mặt lập hiến và lập pháp; thực thi về mặt hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp. Đảng cầm quyền thông qua Hiến pháp và pháp luật, thông qua các thể chế nhà nước và kỷ luật của Đảng để đảm bảo hoạt động của Nhà nước theo định hướng chính trị, hiệu lực và hiệu quả. Trong điều kiện đảng cầm quyền, có nhà nước và hướng đến nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì pháp luật chính là công cụ mạnh mẽ, hữu hiệu để điều khiển hoạt động của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Pháp luật chính là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng phải sử dụng các phương pháp tập trung - dân chủ, khoa học, pháp lý để Nhà nước thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật giám sát, kiểm tra các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Thiết kế mô hình tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp nhưng không phân chia. Định vị và lựa chọn các vị trí trong bộ máy quyền lực nhà nước mà Đảng phải chiếm ưu thế tuyệt đối bảo đảm tính thống nhất và khả năng kiểm soát quyền lực.
Thứ ba, Đảng cầm quyền thông qua đội ngũ cán bộ.
Đảng bố trí đảng viên tham gia, nắm giữ những vị trí then chốt của Nhà nước, hệ thống chính trị, các thiết chế xã hội gắn với xác định tỷ lệ, cơ cấu quyền lực mà Đảng phải nắm giữ, chi phối. Từ đó Đảng lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị, xã hội theo đường lối, chính sách của Đảng. Đội ngũ cán bộ là linh hồn và sức sống của bộ máy nhà nước; là động lực làm nên sức mạnh của Nhà nước và là nhân tố quyết định hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đội ngũ cán bộ quyết định hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, Đảng cầm quyền phải nắm chắc, nắm vững đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ giữ các vị trí trọng yếu trong các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, Đảng cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước; kiểm tra giám sát các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị, đặc biệt trong bộ máy nhà nước; thực hiện kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả. Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo đồng thời cũng là phương thức cầm quyền của Đảng. Kỷ luật Đảng là kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực đối với chủ thể quyền lực có ý nghĩa hết sức quan trọng để phòng, chống tha hóa quyền lực.
Thứ năm, Đảng cầm quyền thông qua việc lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đầy đủ, toàn diện, nhất quán Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách; thực hiện cầm quyền bằng pháp luật. Đảng là lực lượng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đường lối của Đảng được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật. Đường lối của Đảng được “luật hoá”, được “hoá thân” vào các quy định pháp luật, các quan hệ pháp luật như chủ thể, khách thể, nội dung quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí... nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước có tính độc lập tương đối bởi sự phân định rõ vị trí, chức năng của Đảng và Nhà nước trên cả hai phương diện lí luận và thực tiễn. Thể chế hoá không phải là việc sao chép máy móc những nội dung trong đường lối của Đảng thành pháp luật. Ở khía cạnh khác, đường lối của Đảng mang ý nghĩa và nội dung riêng còn pháp luật có những yêu cầu riêng. Pháp luật không thể phản ánh thụ động các nội dung trong đường lối của Đảng. Hoạt động lập pháp, thi hành và bảo vệ pháp luật là những hoạt động mang tính sáng tạo của Nhà nước. Đảng không thể làm thay Nhà nước trong các hoạt động đó. Giữa pháp luật, chính sách với Cương lĩnh, đường lối của Đảng trong quá trình thể chế hóa luôn có sự nhất quán. Luật pháp trở thành công cụ cơ bản của phương thức cầm quyền, bao gồm mọi hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ sáu, chế định hóa ý thức hệ giai cấp thành quy phạm đạo đức cầm quyền làm cơ sở ràng buộc trách nhiệm, lòng trung thành của đảng viên với Đảng, với Tổ quốc; lấy đức để cầm quyền. Hoạt động này gồm có: (1) xây dựng hệ giá trị cốt lõi cho từng cơ quan bộ máy nhà nước làm triết lý dẫn dắt; (2) xây dựng quy phạm đạo đức cầm quyền cho lãnh đạo của Đảng, bởi vì Đảng ta là đảng cầm quyền, mọi sai, đúng về đường lối, tư tưởng, phẩm chất đạo đức tốt, xấu không bó hẹp trong Đảng mà tác động tới toàn xã hội; (3) Nhà nước, sử dụng ý thức hệ kết hợp với kỷ luật Đảng để ràng buộc trách nhiệm, lòng trung thành của đảng viên với Đảng, với Tổ quốc; (4) xây dựng chế độ chính sách, thỏa mãn lợi ích chính đáng và hợp pháp của cán bộ, đảng viên.
3. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay
Sự cầm quyền của Đảng chỉ được thực hiện có hiệu quả khi bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; hệ thống pháp luật đồng bộ; đội ngũ cầm quyền có phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ; hệ thống thể chế, cơ chế kiểm soát, giám sát chặt chẽ. Từ những đặc thù trong phương thức cầm quyền của Đảng, những vấn đề mới nảy sinh từ sự tác động của thế giới cũng như thực tế việc cầm quyền của Đảng đang nổi lên những vấn đề hệ trọng.
Thứ nhất, việc phân định rõ chức năng lãnh đạo và chức năng cầm quyền, phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền đang còn là vấn đề còn nhiều bất cập trong hoạt động thực tiễn. Làm tốt việc này sẽ là cơ sở để có thể hoàn thiện hệ thống chính trị cũng như các giải pháp thực thi việc cầm quyền của Đảng.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo là nói đến chức năng, nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng. Đảng lãnh đạo cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và cả sau khi giành được chính quyền. Theo đó, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” rộng hơn nội hàm khái niệm “Đảng cầm quyền”. Có ý kiến khác lại cho rằng, khái niệm “Đảng lãnh đạo” không gắn với quyền lực chính trị, đó chỉ là sự tác động, định hướng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo ảnh hưởng của Đảng đối với hệ thống chính trị và nhân dân. Có ý kiến đi sâu hơn về học thuật thì cho rằng, nói “Đảng cầm quyền” là đề cập đến quyền lực chính trị của Đảng sau khi giành được chính quyền, nghĩa là vai trò lãnh đạo, kỹ năng lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Vì vậy, sau khi giành được chính quyền, cần nhấn mạnh một cách cụ thể vai trò, trách nhiệm và các cách thức để Đảng kiểm soát, điều hành bộ máy chính quyền. Nếu chỉ nhấn mạnh vai trò lãnh đạo chung, thì chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Vậy, vấn đề đặt ra là “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền” có phải là hai khái niệm đồng nhất? Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, phải chăng phương thức lãnh đạo cũng là phương thức cầm quyền của Đảng? Theo đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa với nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng? Những bất cập trong nhận thức này dẫn đến những hạn chế nhất định về xác định nội dung, phương thức lãnh đạo cũng như nội dung, phương thức cầm quyền; hạn chế trong việc xác định chủ trương, đường lối, giải pháp lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Vì thế, những vấn đề như: là một đảng lãnh đạo trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải làm gì? Đảng phải lãnh đạo như thế nào? Là một đảng duy nhất cầm quyền, Đảng cần phải “cầm”, “nắm” những gì? Đảng cầm quyền bằng những phương pháp, cách thức nào? Làm thế nào để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả cầm quyền của Đảng?... cần có sự phân định và luận giải tường minh.
Thứ hai, tình trạng Đảng sai lầm khi đề ra chủ trương, đường lối lãnh đạo gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội, như V.I.Lênin đã từng cảnh báo, khi một đảng duy nhất cầm quyền sẽ dễ nảy sinh bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Những đường lối đưa ra để lãnh đạo nhà nước và xã hội của đảng cầm quyền dễ nảy sinh những sai lầm, hạn chế nếu thiếu một cơ chế phản biện, dân chủ bị vi phạm… Sự lạc quan thái quá với những niềm tin thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn thì những đường lối phi thực tế, ảo tưởng sẽ nảy sinh. Bệnh này dẫn tới nhiều điều hệ trọng khác như chủ quan duy ý chí, mất dân chủ... Cho nên tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ, kiểm soát quyền lực… là những biện pháp ngăn ngừa căn bệnh này hiệu quả.
Thứ ba, Đảng ta là đảng duy nhất lãnh đạo và duy nhất cầm quyền nên cán bộ của Đảng rất dễ bị mắc bệnh độc đoán, chuyên quyền, chủ quan, duy ý chí, quan liêu, hách dịch. Đảng đã nêu rõ, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên bị suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII và XIII khẳng định, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp; cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Chính điều này đã và đang làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân.
Thứ tư, việc cầm quyền cũng như phương thức cầm quyền của Đảng rất đặc thù, ít những điều kiện và hoàn cảnh tương đồng để có thể học tập, đúc rút kinh nghiệm. Trên thế giới hiện nay, chỉ có một vài nước do đảng vừa lãnh đạo, vừa cầm quyền như Trung Quốc, Lào, Cuba. Ngay những nước xã hội chủ nghĩa cũng có những điểm đặc thù, trong phương thức tổ chức lãnh đạo và cầm quyền không giống Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát về mặt lý luận để từ đó có những định hướng lớn trong việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng là vô cùng cần thiết.
Thứ năm, phương thức cầm quyền để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải không ngừng cách mạng, sáng tạo, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự có bản lĩnh, trí tuệ, tuy nhiên không ít trong đội ngũ cán bộ, Đảng viên hiện nay còn yếu kém, bất cập so với nhiệm vụ được giao.
Gần 80 năm đã trôi qua, kể từ khi Đảng ta lãnh đạo toàn dân giành được chính quyền. Trên chặng đường lịch sử hơn 2/3 thế kỷ đó, Đảng vừa lãnh đạo toàn dân tộc vừa thực hiện chức năng cầm quyền, đưa đất nước vượt qua bao khó khăn, thách thức, lập nên những kỳ tích mang tầm thời đại. Đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, trước sự bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và sự chống phá của các thế lực thù địch, song Đảng ta đã chèo lái con thuyền cách mạng tiến lên cùng thời đại. Đảng ta đã xây dựng cả hệ thống chính trị, hệ thống chính quyền vững mạnh để thực hiện sự cầm quyền của mình. Đảng đã hóa thân vào Nhà nước, thực hiện chức năng của mình, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước hoàn thiện cơ chế và các biện pháp để việc cầm quyền ngày càng hiệu quả, được nhân dân thừa nhận. Kiên định một đảng duy nhất cầm quyền đi đôi với mở rộng dân chủ trong đảng và xã hội. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là mục tiêu và động lực của đổi mới phương thức cầm quyền. Thay đổi tư duy cầm quyền, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực thi quyền lực từ trung ương đến cơ sở phải trong sạch, vững mạnh, liêm chính. Cần tiếp tục nâng cao vai trò, vị thế của Đảng cầm quyền trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công.
---------
Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị số 2 (38) - 2024
1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, t.43, tr.156.
2 Nguyễn Văn Huyên: Đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo; quan hệ giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/dang-cam-quyen-va-dang-lanh-dao;-quan-he-giua-phuong-thuc-lanh-dao-va-phuong-thuc-cam-quyen-cua-dang-cong-san-viet-nam.html, cập nhật 04/4/2020.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.275.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611 - 612.