ThS ĐỖ THANH HIỀN
Học viện Chính trị khu vực I
(TTKHCT) - Với mục tiêu đưa ngành du lịch trở thành ngành mũi nhọn, căn cứ trên thế mạnh về tài nguyên du lịch của vùng, các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương các tỉnh Nam Bộ đã quan tâm, chú trọng đầu tư, khai thác tiềm năng du lịch của vùng. Trên cơ sở phân tích thực trạng khai thác tài nguyên du lịch, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả và phát huy hết tiềm năng tài nguyên du lịch ở khu vực Nam Bộ trong thời gian tới.
(Nguồn: phuongnam.vanhoavaphattrien.vn)
1. Khái quát về tài nguyên du lịch và quan điểm, mục tiêu về phát triển du lịch ở Nam Bộ
1.1. Tài nguyên du lịch ở Nam Bộ
Nam Bộ bao gồm 19 tỉnh, thành phố được chia thành hai khu vực là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ; trong đó, Đông Nam Bộ có 6 tỉnh, thành phố (Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh); Tây Nam Bộ hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh, thành phố (Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ). Đây là vùng đất giàu có về các giá trị văn hóa - lịch sử, đa dạng về tài nguyên du lịch, dồi dào về nguồn nhân lực, có nhiều tiềm năng để phát triển đa dạng loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, du lịch nghỉ dưỡng gắn với sông nước, miệt vườn, du lịch biển, du lịch văn hóa, du lịch làng nghề, du lịch MICE (loại hình du lịch kết hợp hội nghị - Meeting, khen thưởng - Incentive, hội thảo - Convention và triển lãm - Exhibition).
Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác có thể được sử dụng cho mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch văn hóa gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc; giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch (Điều 15, Luật Du lịch năm 2017). Theo đó, tài nguyên du lịch ở Nam Bộ có những tiềm năng như sau:
Thứ nhất, tài nguyên du lịch tự nhiên ở Nam Bộ
Nhìn một cách bao quát, về địa lý tự nhiên, Nam Bộ bao gồm hai bộ phận có đặc điểm khác nhau. Đông Nam Bộ là vùng đồng bằng cao với các thềm phù sa cổ, bán bình nguyên đất đỏ bazan; Tây Nam Bộ là vùng đồng bằng châu thổ tương đối bằng phẳng. Nam Bộ nằm trong vùng khí hậu cận xích đạo, ít chịu ảnh hưởng của bão, ít có diễn biến thất thường về khí hậu, có nhiều hồ lớn, sông dài và hệ sinh thái rừng đa dạng, v.v. rất thuận lợi cho phát triển du lịch. Nam Bộ với đường bờ biển dài (chiều dài bờ biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 156km, vùng biển và ven biển Tây Nam từ mũi Cà Mau - Năm Căn đến Hà Tiên - Kiên Giang có chiều dài là 347km) đã tạo nên các bãi biển đẹp, nước trong xanh, các hòn đảo (Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du, v.v.) là điểm nhấn trong phát triển du lịch biển đảo ở Nam Bộ. Bên cạnh đó, Nam Bộ có nguồn tài nguyên du lịch gắn với cảnh quan núi: núi Bà Đen (Tây Ninh), núi Bà Rá (Bình Phước), núi Chứa Chan (Đồng Nai), núi Sập, núi Sam, núi Cấm, núi Ba Thê (An Giang), núi Đá Dựng (Kiên Giang), v.v.. Nam Bộ còn có nguồn tài nguyên du lịch gắn với cảnh quan, hệ sinh thái sông hồ: sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ, sông Tiền, sông Hậu, sông Ông Đốc, v.v.; hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh), hồ Trị An (Đồng Nai), hồ Thác Mơ (Bình Phước). Ngoài ra, Nam Bộ có nguồn tài nguyên du lịch sinh thái gắn với vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn, khu rừng ngập mặn như: khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ và khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai (được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới năm 2000 và 2011); hệ thống vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai), vườn quốc gia Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), vườn quốc gia Bù Gia Mập (Bình Phước), vườn quốc gia Lò Xò - Xa Mát (Tây Ninh), vườn quốc gia U Minh Thượng (Kiên Giang), vườn quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp), v.v..
Thứ hai, tài nguyên du lịch văn hóa ở Nam Bộ
Một là, về di tích lịch sử - văn hóa. Nam Bộ là vùng đất có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, nhất là hệ thống di tích cách mạng. Hầu như tỉnh, thành phố nào cũng có những di tích đặc trưng, được công nhận cấp quốc gia như: Bến Nhà Rồng (Thành phố Hồ Chí Minh); Khu di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh), Nhà tù Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh (Bình Phước), quần thể di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng núi Bà (Tây Ninh), khu di tích chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (Tiền Giang), v.v..
Hai là, về di tích, di chỉ khảo cổ học. Di chỉ Văn hóa khảo cổ Đồng Nai, di chỉ Văn hóa khảo cổ Óc Eo minh chứng cho bề dày lịch sử của vùng… Di tích tôn giáo - tín ngưỡng nổi tiếng như: Chùa Dơi (Sóc Trăng), nhà thờ Đức Bà (Thành phố Hồ Chí Minh), tòa thánh Tây Ninh (Tây Ninh), v.v..
Ba là, về phong tục, tập quán, lễ hội, nghệ thuật dân gian. Nam Bộ có nhiều phong tục, tập quán, lễ hội, nghệ thuật dân gian đậm đà bản sắc gắn với các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm, v.v.. Về phong tục, tập quán có tục thờ Thông Thiên - tín ngưỡng thờ Trời, nghi lễ tang ma của người Chăm Bà-la-môn, tập quán cưới xin của người Khmer, nghi lễ liên quan đến sinh đẻ của người Hoa, tín ngưỡng thờ Quan Công vùng Nam Bộ. Về lễ hội có lễ hội miếu Bà Chúa Xứ đã vượt ra khỏi phạm vi địa phương Châu Đốc và trở thành lễ hội dân gian lớn nhất đồng bằng Nam Bộ, lễ hội Gò Tháp (Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp), lễ hội Nghinh Ông - thờ cá Voi, lễ hội Chol Chnam Thmay - Tết truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Về nghệ thuật có nghệ thuật Dù kê của người Khmer, nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ, nghệ thuật múa lân sư rồng của người Hoa, v.v..
Bên cạnh đó, Nam Bộ còn có một số nghề nổi tiếng như: nghề làm bột gạo (Sa Đéc), nghề làm nem (Đồng Tháp), nghề đóng ghe xuồng (Hậu Giang), nghề làm bánh tráng (Thuận Hưng), nghề nắn nồi (Kiên Giang), nghề gốm (Vĩnh Long), v.v.. Về ẩm thực, Nam Bộ có nhiều món ăn truyền thống nổi tiếng như bánh canh (Trảng Bàng), bánh pía (Sóc Trăng), bánh phồng tôm (Sa Đéc), lẩu mắm (Cần Thơ), nước mắm (Phú Quốc), bún mắm (Đồng Tháp), bò nướng ngói (Mỹ Xuyên), v.v.. Văn hóa ẩm thực dân gian tăng thêm sức cuốn hút du khách trong diễn trình du lịch vùng Nam Bộ.
1.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển du lịch ở Nam Bộ
Với mục tiêu đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chỉ đạo ngành du lịch, các cấp các ngành phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh sẵn có để phát triển du lịch gắn với mục tiêu phát triển bền vững, gắn với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc. Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW Về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó xác định rõ: “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác”1. Tiếp đến, Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng xác định: “Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại và phát triển đồng bộ, bền vững và hội nhập quốc tế (…) Xây dựng, phát triển và định vị thương hiệu du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc (…) Đến năm 2030, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 47 - 50 triệu lượt, du lịch đóng góp khoảng 14 - 15% GDP và nâng tỉ trọng khu vực dịch vụ trong GDP lên trên 50%”2.
Trong Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Chính phủ đã xác định Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ là hai trong bảy vùng du lịch có vai trò quan trọng đối với phát triển du lịch cả nước. Đông Nam Bộ hướng đến khai thác các sản phẩm du lịch đặc trưng: du lịch MICE; du lịch văn hóa, lễ hội, giải trí; du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch giải trí cuối tuần, du lịch thể thao, du lịch mua sắm; du lịch gắn với cửa khẩu. Tây Nam Bộ chú trọng khai thác du lịch sinh thái (miệt vườn, đất ngập nước); du lịch biển đảo; du lịch văn hóa, lễ hội. Quyết định số 3624/QĐ của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch về Phê duyệt nội dung đề cương “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Đông Nam Bộ đến năm 2020, tầm nhìn 2030” đã xác định: Du lịch các tỉnh Đông Nam Bộ nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt, là cầu nối du lịch Bắc - Nam. Đây là khu vực có nhiều tiềm năng nổi bật về du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch kết hợp mua sắm, du lịch kết hợp khám, chữa bệnh. Vì vậy, phát triển du lịch vùng Đông Nam Bộ còn có ý nghĩa là động lực đối với du lịch cả nước. Quyết định 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, định hướng du lịch đồng bằng sông Cửu Long sẽ phát triển trở thành thương hiệu quốc tế về du lịch nông nghiệp - nông thôn, du lịch sinh thái; phát triển Cần Thơ và Phú Quốc trở thành hai trung tâm du lịch quốc tế; phát triển các khu du lịch, điểm du lịch cấp quốc gia, cấp vùng gắn với việc bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên và bảo tồn các giá trị văn hóa - lịch sử; chú trọng phát triển các tuyến du lịch kết nối nội vùng, liên vùng, v.v..
Trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh, với hệ thống sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo, có sức cạnh tranh, quy hoạch du lịch khu vực Nam Bộ đã xác định mục tiêu cụ thể đối với từng địa phương như: đầu tư du lịch Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm và hạt nhân của vùng; phát triển Vũng Tàu trở thành đô thị du lịch biển hiện đại; xây dựng Phú Quốc là thành phố biển đảo, trung tâm du lịch và dịch vụ cao cấp; phát triển Cần Thơ là thành phố sinh thái, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long; Bến Tre phát triển đa dạng sản phẩm du lịch để tạo sự khác biệt với các tỉnh lân cận, v.v..
2. Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch ở Nam Bộ
2.1. Khai thác tài nguyên du lịch biển đảo, sông nước
Thứ nhất, tài nguyên du lịch biển đảo được xem là một trong những thành tố quan trọng bậc nhất cấu thành hệ thống sản phẩm du lịch tự nhiên. Tại Diễn đàn phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam 2022, ông Lê Minh Ngân, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường khẳng định: “các ngành kinh tế biển từng bước trở thành động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Du lịch biển đảo đang mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch cả nước”3. Theo ước tính, gần 200 điểm du lịch và nghỉ dưỡng nằm ở các vùng ven biển trải dọc từ Bắc đến Nam. Tốc độ tăng trưởng về thu nhập từ du lịch Việt Nam trong vòng 15 năm gần đây giữ mức tăng trưởng hơn 24%/năm. Lượng khách du lịch quốc tế đến khu vực ven biển có xu hướng tăng năm sau cao hơn năm trước và hiện nay chiếm gần 70% - 80% tổng lưu lượng khách trên cả nước4. Riêng ở Nam Bộ, do có điều kiện địa lý, khí hậu, thủy văn khá ổn định, trong những năm gần đây, ngành du lịch ở Nam Bộ rất chú trọng khai thác tài nguyên biển đảo.
Trong số các tỉnh và thành phố ven biển ở Nam Bộ thì Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên Giang là hai địa phương có nguồn tài nguyên du lịch biển đảo nổi bật nhất. Bà Rịa - Vũng Tàu sở hữu ba địa danh nổi tiếng (biển Vũng Tàu, biển Long Hải, Côn Đảo) nên có nhiều điều kiện phát triển những sản phẩm du lịch biển đảo đặc sắc như: lặn biển, câu cá, ngắm san hô, nghỉ dưỡng... Kiên Giang có nhiều bãi tắm đẹp như: Nam Du (Kiên Hải), Mũi Nai (Hà Tiên), Mũi Gành Dầu, bãi Dài, bãi Khem, bãi Sao, bãi Thơm (Phú Quốc), v.v.. Tài nguyên trong lòng biển ở đây cũng rất phong phú, phù hợp để đưa vào phục vụ khách tham quan như: nhóm động vật biển (động vật quý hiếm cần được bảo vệ, rùa biển, giống loài thủy sản có giá trị kinh tế), nhóm thực vật biển (hệ sinh thái ở thảm cỏ biển, hệ san hô, rừng ngập mặn), v.v..
Hệ thống khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia ven biển ở Nam Bộ phong phú, có giá trị trong việc bảo tồn sự đa dạng sinh học đồng thời cũng là lợi thế để phát triển du lịch biển đảo. UNESCO đã công nhận nhiều khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam như: Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ (2000), Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang (2006), Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau (2009), v.v.. Vườn quốc gia gần biển có Vườn quốc gia U Minh Hạ, Vườn quốc gia U Minh Thượng; vườn quốc gia ven biển có Vườn quốc gia Mũi Cà Mau; vườn quốc gia trên hải đảo có Vườn quốc gia Phú Quốc; v.v..
Thứ hai, tài nguyên du lịch sông nước là yếu tố quan trọng, thế mạnh tạo nên diện mạo đặc thù của du lịch vùng Nam Bộ. Tuyến đường sông Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Đồng Nai tham quan các di tích lịch sử - văn hóa; tuyến sông Sài Gòn - sông Soài Rạp - biển Vũng Tàu để kết nối khu nghỉ dưỡng, vui chơi cao cấp như: Hồ Tràm, Bình Châu, v.v.. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt với dòng chảy hiền hòa tạo điều kiện để Nam Bộ phát triển các sản phẩm du lịch hấp dẫn như: du ngoạn bằng tàu tham quan, tìm hiểu và trải nghiệm về lối sống, cách làm ăn, ẩm thực của người dân; đi xuồng, ghe thăm chợ nổi (Cái Bè, Cái Răng, v.v.); tham quan vựa cá lồng, vùng nuôi trồng thủy sản; v.v..
Dù có nhiều nỗ lực và hiệu quả đóng góp vào sự phát triển du lịch, một số tỉnh trong khu vực có tiềm năng lớn nhưng chưa thu hút được dự án đầu tư nên chưa khai thác hết hiệu quả tài nguyên sông nước, biển đảo. Một số địa phương còn thiếu nhiều sản phẩm du lịch gắn với sông nước, biển đảo mang đẳng cấp quốc tế, có thể tạo động lực, nâng tầm cho du lịch của Nam Bộ. Các điểm du lịch sông nước thiếu liên kết, chưa tạo được sự thống nhất trong việc thiết kế tua (tour), tuyến đã ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách. Ngoại trừ một số địa danh biển đảo, sản phẩm du lịch sinh thái miệt vườn từng được xem là đặc sản của khu vực Tây Nam Bộ có tình trạng tự phát, trùng lặp, thiếu sự khác biệt nổi bật, dễ gây cảm giác nhàm chán cho du khách khi có ý kiến cho rằng chỉ cần đến một tỉnh miền Tây là có thể khám phá toàn bộ miền Tây. Một số chủ xuồng ghe, chủ vựa hải sản chưa có ý thức bảo vệ môi trường nên dẫn đến hình ảnh rác thải trôi nổi, tàu ghe di chuyển kéo theo những vệt dầu loang trên mặt nước, nhà vệ sinh trên sông, chất thải từ các nhà bè nuôi hải sản, v.v. làm ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường.
2.2. Khai thác tài nguyên di tích lịch sử - văn hóa
Du lịch gắn với các di tích lịch sử - văn hóa được xác định là trọng tâm trong định hướng về chiến lược phát triển du lịch của khu vực Nam Bộ, nhiều địa phương coi đây là tài nguyên vô giá cần được khai thác, bảo tồn và phát huy.
Theo thống kê, hệ thống di tích ở Nam Bộ lên tới hàng ngàn, trong đó, hàng trăm di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc - nghệ thuật, danh thắng lịch sử cách mạng được xếp hạng cấp Quốc gia. Một số di tích nổi bật được nhiều công ty du lịch đưa vào phục vụ du khách như: Di tích Xẻo Quýt (Đồng Tháp), Di tích Đồng Khởi, Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định (Bến Tre), Khu di tích lịch sử - thắng cảnh Hòn Đất, Di tích nhà tù Phú Quốc (Kiên Giang), Di tích quốc gia đặc biệt Dinh Độc Lập, Di tích Địa đạo Củ Chi (Thành phố Hồ Chí Minh), v.v..
Với mục tiêu phục hồi ngành du lịch sau đại dịch COVID-19, nhằm thực hiện chiến lược của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch theo hướng mỗi quận, huyện và thành phố Thủ Đức có ít nhất một sản phẩm du lịch, nhiều tua (tour), tuyến du lịch hấp dẫn gắn với các di tích lịch sử - văn hóa được triển khai như: Ký ức Biệt động Sài Gòn, Quận 1 - Sống động Sài Gòn, Ký ức Sài Gòn - Chợ Lớn (Quận 5), Quận Gò Vấp - Trăm năm tìm lại dấu xưa, Quận Tân Bình - Biết bao điều thú vị, Củ Chi - Đất thép thành đồng, Đặc công rừng Sác, Vùng đất nghĩa sĩ - Cần Đước - Cần Guộc - Gò Công5, v.v.. Các tua (tour), tuyến du lịch này trở thành những sản phẩm đặc trưng của thành phố, góp phần tạo dấu ấn độc đáo, thu hút du khách trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, việc phát triển loại hình du lịch về nguồn, tìm hiểu nét văn hóa bản địa hiện vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, tầm vóc và giá trị của di tích. Nhiều di tích dù vẫn còn nguyên hiện trạng nhưng thường xuyên đóng cửa, du khách muốn tham quan phải liên hệ và đăng ký trước. Hơn nữa, không phải di tích nào cũng đủ điều kiện để khai thác tua (tour), tuyến, tính kết nối giữa các địa phương để tạo thành sản phẩm du lịch chưa có nên khó thu hút du khách. Ngoài một số di tích đặc biệt được các tỉnh, thành phố đầu tư phát triển, thu hút khách du lịch thường xuyên, các di tích còn lại thường hoạt động mang tính đơn lẻ trong thời điểm diễn ra lễ hội và chỉ thu hút khách đến thăm trong ngày, đa phần là khách hành hương, có thời gian lưu trú ngắn. Tình trạng này là do nhiều tỉnh chưa có sự liên kết các di tích, sự kiện lịch sử với nhân chứng tại chỗ cùng với các giá trị văn hóa - lịch sử khác để tạo nên những sản phẩm du lịch có chất lượng cao, mà trong đó, khách du lịch không chỉ tham quan, nghe - nhìn như trước kia mà còn được trải nghiệm không khí lịch sử hào hùng thông qua câu chuyện của các nhân chứng, thưởng thức các món ẩm thực.
2.3. Khai thác tài nguyên tín ngưỡng, lễ hội truyền thống
So với các khu vực khác trong cả nước, tiềm năng du lịch lễ hội truyền thống ở Nam Bộ không nhiều, nhưng ở đây có những lễ hội rất đặc sắc, gắn liền với đặc điểm tự nhiên, dân cư của vùng, thu hút khách du lịch mà các vùng miền khác không có như: Lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu (Bình Dương), Lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh), Lễ hội Bà Chúa Xứ (An Giang), Lễ hội Gò Tháp (Đồng Tháp), Lễ hội Nguyễn Trung Trực (Kiên Giang), v.v.. Ngoài ra, du khách có thể tham dự và tìm hiểu những lễ hội độc đáo khác ở Nam Bộ như: Lễ hội Cúng dừa Nam Bộ, Lễ hội Ok Om Bok - Lễ cúng trăng, Lễ hội đua bò Bảy Núi, Lễ hội Cholchnam Thmay (Tết của đồng bào Khmer), Lễ hội Nghinh Ông, v.v.. Tại các lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc như biểu diễn thư pháp, đờn ca tài tử cùng với các trò chơi dân gian như võ thuật, múa lân, cờ tướng, đập nồi, đẩy gậy, v.v. được tổ chức, phục dựng đã đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật, vui chơi giải trí của người dân bản địa và khách thập phương.
Tuy nhiên, du khách còn chưa nhiều, chủ yếu vẫn là người dân địa phương, có thể trong tỉnh hoặc địa phương phụ cận. Họ đến với lễ hội truyền thống của vùng không phải vì mục đích du lịch, khám phá mà vì tín ngưỡng, tâm linh, cầu, khấn nhiều hơn. Mặt khác, do thời gian diễn ra lễ hội tương đối ngắn nên số người lưu trú qua đêm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, điều này khiến hiệu quả khai thác các lễ hội chưa cao. Bên cạnh đó, sự góp mặt của du khách quốc tế chỉ tập trung một lượng nhỏ ở các Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam, Ok Om Bok, đua ghe Ngo (Sóc Trăng), v.v. còn ở các lễ hội khác là rất ít, thậm chí không có. Thực trạng thiếu vắng du khách quốc tế cho thấy công tác quảng bá, xúc tiến của ngành du lịch còn nhiều hạn chế, chưa tiếp thị điểm đến, tạo cầu nối để khách du lịch quốc tế tìm đến lễ hội nói riêng và tìm hiểu văn hóa vùng Nam Bộ nói chung.
2.4. Khai thác tài nguyên làng nghề truyền thống
Du lịch tại làng nghề truyền thống giúp các làng nghề khôi phục và phát triển giá trị văn hóa dân gian, tạo dựng môi trường du lịch văn hóa, mang lại thu nhập ổn định cho cơ sở và người lao động, giúp nâng cao hiểu biết của khách du lịch về lịch sử hình thành và phát triển của làng nghề, góp phần tăng thêm tình yêu quê hương đất nước.
Khu vực Nam Bộ đã hình thành ba nhóm nghề có tiềm năng khai thác du lịch: nhóm ngành nghề tiểu thủ công, nhóm ngành nghề phục vụ ẩm thực, nhóm ngành nghề nông nghiệp hoa kiểng. Một số nghề thủ công truyền thống được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: nghề làm sơn mài (Bình Dương), nghề làm bánh tráng ở Trảng Bàng và nghề làm muối tôm (Tây Ninh), nghề dệt chiếu (Đồng Tháp), nghề làm nước mắm (Phú Quốc - Kiên Giang), nghề muối ba khía, nghề gác kèo ong (Cà Mau)6, v.v.. Tham quan các làng nghề, du khách được gặp gỡ, giao lưu với các nghệ nhân, tìm hiểu về lịch sử hình thành, trải nghiệm một số công đoạn chế tác sản phẩm, thưởng thức đặc sản quê hương Nam Bộ, v.v.. Cùng với hành trình tham quan, khách du lịch còn được tham gia sinh hoạt văn hóa tinh thần của làng nghề như tục cúng tổ nghề, lễ hội hay các hoạt động văn hóa dân gian khác.
Bên cạnh những làng nghề được doanh nghiệp lữ hành khai thác như một điểm đến du lịch như nghề làm mắm (Châu Đốc), làng nghề hoa kiểng (Sa Đéc), nghề làm kẹo (Bến Tre), v.v.. nhiều làng nghề vẫn chỉ là nơi ghé chân để du khách mua quà lưu niệm. Du khách đến làng nghề không chỉ để tham quan, xem nghệ nhân chế tác hay mua sắm sản phẩm mà họ còn muốn được lắng nghe, tìm hiểu về làng nghề, về nguyên liệu làm ra sản phẩm, quy trình sản xuất, tính độc đáo và công dụng của sản phẩm, v.v.. Nhiều làng nghề độc đáo, có tiềm năng nhưng do quy mô làng nghề, không gian thực hành, trải nghiệm còn đơn điệu, hạ tầng giao thông chưa bảo đảm, doanh nghiệp lữ hành chưa biết khai thác để trở thành điểm đến độc lập trong hành trình nên chưa thu hút và níu chân du khách.
Có thể thấy, dù có tiềm năng rất đa dạng và phong phú, nhưng du lịch toàn vùng Nam Bộ vẫn chưa thực sự phát triển, thiếu các trung tâm và điểm đến có tính đặc trưng cao, đẳng cấp chất lượng quốc tế, sản phẩm du lịch kém đa dạng và gần giống nhau giữa các tỉnh trong vùng; thiếu một chiến lược phân vùng và liên kết du lịch để tạo ra chuỗi liên kết toàn vùng. Do đó, các địa phương ở Nam Bộ cần hình thành nên một thương hiệu du lịch chung toàn vùng và tạo ra sự đa dạng trong hành trình của du khách đến khu vực; đặt mục tiêu tăng chi tiêu bình quân và kéo dài thời gian lưu trú của du khách; đóng góp vào sự tăng trưởng bền vững của kinh tế và ổn định xã hội của vùng.
3. Một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả và phát huy tiềm năng tài nguyên du lịch ở Nam Bộ trong thời gian tới
Để ngành du lịch phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế trong thời gian tới, các địa phương ở Nam Bộ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương, doanh nghiệp du lịch và người dân về vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh - tế xã hội, trong xóa đói giảm nghèo của các tỉnh; tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương nhằm tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức cộng đồng về tiềm năng, lợi thế và vai trò của việc khai thác tài nguyên du lịch, về trách nhiệm trong đảm bảo chất lượng sản phẩm du lịch và ý thức bảo vệ môi trường du lịch.
Thứ hai, xây dựng chiến lược cụ thể cho hoạt động tuyên truyền hình ảnh con người, văn hóa vùng Nam Bộ với những sản phẩm tiêu biểu của từng địa phương; đa dạng hóa các hình thức quảng bá thông qua phương tiện truyền thông, ấn phẩm du lịch, tổ chức hội thảo, hội chợ, đăng cai các sự kiện cấp quốc gia và quốc tế, khảo sát để tìm hướng đi mới cho các doanh nghiệp lữ hành trong và ngoài nước, đặc biệt là ứng dụng công nghệ số để tạo đột phá cho hoạt động quảng bá, khai thác tiềm năng du lịch ở khu vực.
Thứ ba, tăng cường liên kết, hợp tác giữa các điểm đến, giữa các công ty du lịch, tạo lập liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa Tây Nam Bộ với Thành phố Hồ Chí Minh và với miền Đông Nam Bộ nhằm khai thác hiệu quả hơn các sản phẩm đặc thù ở từng địa phương, đa dạng các loại hình du lịch, tăng tính cạnh tranh của vùng. Từ đó, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có điều kiện mở rộng thị trường.
Các địa phương cùng nhau đa dạng hóa sản phẩm du lịch, giới thiệu những sản phẩm đặc trưng, tạo sự khác biệt rõ nét với các vùng du lịch phía Bắc và miền Trung, xây dựng thương hiệu, khẩu hiệu cho toàn vùng Nam Bộ chứ không làm riêng lẻ từng tỉnh, thành phố ở Nam Bộ; tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch hiện có và phát triển những sản phẩm du lịch mới, độc đáo, khác biệt, khi liên kết lại sẽ tạo ra chuỗi sản phẩm phong phú, hấp dẫn du khách; kêu gọi đầu tư xây dựng các khu, điểm du lịch trọng điểm; phối hợp chặt chẽ giữa nhà đầu tư với chính quyền địa phương trong xây dựng điểm đến, điểm dừng chân, phương tiện, bến tàu…
Thứ tư, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có chuyên môn du lịch, có kiến thức văn hóa, lịch sử, thành thạo ngoại ngữ; tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn để nhanh chóng nâng cao trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp không chỉ của đội ngũ lao động trực tiếp trong ngành mà còn của cả cộng đồng người dân tham gia vào hoạt động dịch vụ tại các khu du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái…
Thứ năm, đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, các điểm du lịch đảm bảo chất lượng, phát huy bản sắc văn hóa và thế mạnh của từng địa phương; tập trung đẩy nhanh kết nối về mặt giao thông trên cả bốn phương thức (đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường hàng không); đẩy nhanh tiến độ chín công trình có tác dụng kết nối giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long - Thành phố Hồ Chí Minh - Đông Nam Bộ; đặc biệt, tận dụng lợi thế sông nước - một trong những thế mạnh của vùng đồng bằng sông Cửu Long, ưu tiên phát triển các loại hình du lịch đường thủy, gắn kết với các loại hình giao thông khác, đảm bảo giữ được vẻ đẹp đặc trưng vùng sông nước để phát triển du lịch.
---------
Bài viết được đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học chính trị số 3 (39) - 2024
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-08-nqtw-ngay-16012017-cua-bo-chinh-tri-ve-phat-trien-du-lich-tro-thanh-nganh-kinh-te-mui-nhon-2763, truy cập ngày 27/6/2023.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.248 - 249.
3 Diễn đàn phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam 2022 (tổ chức ngày 12/6/2022 tại Phú Yên), https://kinhtetrunguong.vn/thoi-su/tin-noi-bat/dien-dan-bien.html, truy cập ngày 10/9/2023
4 Phạm Huy Thăng - Lê Hồng Vân: Nỗ lực xây dựng Việt Nam thực sự trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, https://tuyengiao.vn/no-luc-xay-dung-viet-nam-thuc-su-tro-thanh-quoc-gia-manh-ve-bien-lam-giau-tu-bien-142236, truy cập ngày 30/6/2023.
5 Công ty Cổ phần lữ hành Vietluxtua: Chùm tour văn hóa - lịch sử, https://vietluxtour.com/du-lich-trong-nuoc/chum-tour-van-hoa-lich-su.html, truy cập ngày 02/7/2023.
6 Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, https://dsvh.gov.vn/danh-muc-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia-1789, truy cập ngày 02/7/2023.