ThS TRẦN THỊ THÊM
Trường Chính trị tỉnh Thái Bình
(TTKHCT) - Những năm qua, Hàn Quốc đã ưu tiên nhiệm vụ xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số, từ đó giúp cho quốc gia này đạt được những thành công lớn trong xây dựng chính quyền số. Trên cơ sở phân tích thực tiễn xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số ở Hàn Quốc, bài viết rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam hiện nay.
Ảnh minh họa_Nguồn: Việt Nam Hội Nhập
Chính quyền số là chính quyền nhà nước sử dụng công nghệ số để hiện đại hóa tổ chức, hoạt động của mình nhằm cung ứng tốt dịch vụ công hoặc tạo ra các giá trị công1. Trong quá trình này, việc xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số được xác định là nhiệm vụ quan trọng cần được ưu tiên hàng đầu.
Hàn Quốc là một trong mười quốc gia đứng đầu thế giới về phát triển chính quyền số, đặc biệt trong giai đoạn 2010 - 2014 và 2018 - 2020, quốc gia này đứng thứ nhất toàn cầu2. Để có được vị thế này, Hàn Quốc đã nỗ lực xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý cho chính quyền số từ rất sớm, đi trước một bước so với yêu cầu về xây dựng các hạ tầng khác. Thực tiễn xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số ở Hàn Quốc đem lại những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý về chuyển đổi số nói chung và chính quyền số nói riêng.
1. Thực tiễn xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số ở Hàn Quốc
Thứ nhất, Hàn Quốc ưu tiên xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số đáp ứng yêu cầu bảo đảm tốt quyền con người
Hiến pháp năm 1948 (sửa đổi năm 1987) của Hàn Quốc đã hiến định “Nhà nước có trách nhiệm xác nhận và đảm bảo các quyền con người và bất khả xâm phạm của cá nhân” (Điều 10)3; đảm bảo quyền riêng tư, bí mật thư tín (Điều 17, 18); v.v. Trên cơ sở đó, Hàn Quốc đã đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp lý trong quá trình số hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Luật Chính quyền điện tử (2001) của Hàn Quốc xác định rõ mục đích là “tạo điều kiện cho việc triển khai hiệu quả chính quyền điện tử, nâng cao năng suất, tính minh bạch và dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước và cải thiện chất lượng cuộc sống của công dân bằng cách đưa ra các nguyên tắc cơ bản, thủ tục, phương pháp thúc đẩy và các vấn đề liên quan khác để xử lý điện tử các công việc hành chính” (Điều 1)4. Điều này đã “mở đường” cho việc xây dựng cơ sở pháp lý để chuyển đổi số trong hoạt động của chính quyền Hàn Quốc; qua đó tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, tăng cường dân chủ và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công theo phương thức trực tuyến5. Trong luật này còn xác định các quy tắc tổ chức và vận hành chính quyền số, gồm: một là, mỗi cơ quan công quyền phải xem xét kỹ lưỡng, trong quá trình hiện thực hóa, vận hành và phát triển chính quyền số, phải thực hiện đồng thời các biện pháp cần thiết để: (1) số hóa các dịch vụ công và cải thiện sự thuận tiện của công dân; (2) đổi mới quản trị công và nâng cao năng suất, hiệu quả; (3) bảo đảm an ninh và độ tin cậy của hệ thống thông tin; (4) bảo vệ thông tin cá nhân và quyền riêng tư; (5) mở rộng công bố và chia sẻ thông tin hành chính; (6) ngăn ngừa đầu tư trùng lặp và cải thiện khả năng tương tác; hai là, mỗi cơ quan chức năng phải thúc đẩy việc hiện thực hóa, vận hành và phát triển chính quyền số dựa trên kiến trúc công nghệ số; ba là, mỗi cơ quan chức năng không được yêu cầu người khởi kiện dân sự gửi các vấn đề có thể được xác minh bằng phương thức điện tử thông qua việc chia sẻ thông tin hành chính giữa các cơ quan; bốn là, thông tin cá nhân được duy trì và quản lý bởi các cơ quan hành chính, không được sử dụng trái với mong muốn của người đó, trừ khi có quy định khác (Điều 4)6.
Những thể chế pháp lý đầu tiên này nhằm bảo đảm cho chính quyền số ở Hàn Quốc được tổ chức, vận hành theo hiến pháp, pháp luật và bảo đảm các quyền cơ bản của con người, như: quyền bí mật thông tin, bí mật đời tư, dân chủ, v.v.
Thứ hai, Hàn Quốc chú trọng xây dựng thể chế pháp lý nhằm đảm bảo tính toàn diện, thống nhất và đồng bộ các bộ phận của chính quyền số
Để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng chính quyền số, Hàn Quốc đã từng bước xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý cho chính quyền số theo lộ trình từng giai đoạn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, năng lực công nghệ và trình độ dân trí.
Giai đoạn 1987 - 2000, Hàn Quốc đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý về quản lý, khai thác, chia sẻ các cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng, như: đăng ký dân cư, bất động sản, phương tiện giao thông; các quy chuẩn về hạ tầng truyền thông số thông qua dự án hạ tầng thông tin; thiết lập cơ sở hạ tầng tích hợp giữa các cơ quan hành chính bằng cách tập trung vào các đơn vị nghiệp vụ (trong khu vực giới hạn), trong đó đặc biệt là Luật Thúc đẩy tin học năm 1995. Với sự nỗ lực đó, Chính phủ Hàn Quốc đã tạo dựng cơ sở pháp lý đáp ứng yêu cầu thúc đẩy xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, mạng lưới Internet tốc độ cao và thu thập, xây dựng một hệ thống thông tin quốc gia, tạo cơ sở dữ liệu nền tảng và hình thành thói quen tra cứu thông tin liên quan đến chính quyền các cấp qua mạng.
Giai đoạn 2001 - 2002, Hàn Quốc đã ban hành Luật Chính quyền điện tử (3/2001) và ban hành các văn bản pháp quy để cụ thể hóa luật này, trong đó “ban hành các quy chuẩn kỹ thuật, các thủ tục hành chính phù hợp để xử lý, giải quyết công việc trên môi trường điện tử, như: xử lý văn bản điện tử; hệ thống quản lý doanh nghiệp; chia sẻ thông tin quản lý hành chính; hệ thống thông tin tội phạm; mở rộng đối thoại trực tuyến; quản lý tài nguyên thông tin quốc gia; phát triển mạng chính quyền điện tử; xây dựng kiến trúc công nghệ thông tin; chuyên nghiệp hóa tổ chức và nhân lực công nghệ thông tin”7; v.v. Thông qua đó, Hàn Quốc thiết lập được dịch vụ truy cập một cửa trực tuyến cho công dân, dịch vụ mua sắm điện tử và hệ thống thông tin tài chính quốc gia trực tuyến. Điều này “không chỉ nhằm giảm chi phí vận hành của nền hành chính mà còn hướng đến tạo ra sự thuận lợi, tiện ích và chi phí thấp trong việc sử dụng dịch vụ công; qua đó tăng cường tính công khai, minh bạch và thúc đẩy quyền làm chủ của người dân, giảm thiểu các tiêu cực, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Đây là cơ sở để nâng cao chất lượng sống của người dân và thúc đẩy phúc lợi xã hội trên nền tảng xã hội số và xã hội tri thức”8.
Giai đoạn 2003 - 2007, Hàn Quốc thực hiện Chiến lược phát triển chính quyền điện tử. Để thực hiện chiến lược này, Hàn Quốc tiếp tục thúc đẩy hoàn thiện các quy định pháp luật về “quản lý tài nguyên thông tin; số hóa thông tin tài chính trung ương/địa phương, hoạt động ngoại giao và thương mại; chính quyền điện tử ở cấp địa phương; kiểm toán điện tử; quốc hội điện tử; tích hợp quản lý nguồn nhân lực; dịch vụ hành chính công trực tuyến; tích hợp quản lý đất đai, công trình xây dựng; tích hợp thông tin phúc lợi xã hội quốc gia; tích hợp thông tin quản lý thực phẩm và thuốc; tích hợp thông tin quản lý lao động; dịch vụ tòa án trực tuyến; dịch vụ một cửa hỗ trợ doanh nghiệp; tích hợp quản lý thông tin logistic; dịch vụ thương mại điện tử; quản lý an toàn quốc gia; thuế điện tử; tích hợp dịch vụ hỗ trợ người nước ngoài; hỗ trợ xuất khẩu giải pháp chính phủ điện tử; xây dựng hệ thống an ninh thông tin”9. Bên cạnh đó, Hàn Quốc chú trọng xây dựng hệ thống pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh thông tin nhằm bảo đảm hệ thống chia sẻ thông tin hành chính tổng hợp, bảo đảm sự tham gia trực tuyến của người dân vào các hoạt động cơ quan nhà nước, tăng cường kết nối theo chiều dọc và ngang giữa các cơ quan nhà nước.
Đến giai đoạn 2007 - 2015, Hàn Quốc tiếp tục ban hành, hoàn thiện thể chế pháp lý phục vụ cho quá trình hoàn thiện chuyển đổi dữ liệu, tích hợp các dịch vụ công tương tác với nhau và tương tác với người dân, hình thành mối quan hệ mật thiết giữa các thành tố: “G2C (chính quyền với người dân), G2B (chính quyền với doanh nghiệp) và G2G (chính quyền với các cơ quan của chính quyền); liên kết các hệ thống thông tin dữ liệu với nhau và lên kế hoạch triển khai. Trong đó, Hàn Quốc đã xây dựng kế hoạch với lộ trình rõ ràng: năm 2007 (giai đoạn 1): xây dựng kế hoạch tổng thể và các kế hoạch hành động; năm 2008 (giai đoạn 2): xây dựng nền tảng; giai đoạn 2009 - 2011 (giai đoạn 3): thiết lập hệ thống, trong đó triển khai toàn diện các hệ thống đã được phát triển; giai đoạn 2012 - 2015 (giai đoạn 4): tích hợp, trong đó nâng cao hiệu quả bằng việc tích hợp các hệ thống và cung cấp các dịch vụ chất lượng cao hơn. Kết thúc giai đoạn này, Hàn Quốc đã xây dựng nền pháp lý, hạ tầng, nguồn nhân lực cho việc vận hành chính quyền điện tử, đặc biệt đã thúc đẩy “phổ biến hóa” người dân sử dụng mạng Internet trong quá trình tương tác với chính quyền các cấp”10. Như vậy, nền hành chính của Hàn Quốc đã có sự chuyển đổi tích cực từ mô hình chính quyền là trung tâm sang người dân là trung tâm.
Từ năm 2016 đến nay, Hàn Quốc triển khai chiến lược xây dựng chính quyền điện tử thông minh, với mục tiêu mọi người sử dụng các dịch vụ chính phủ điện tử mọi lúc, mọi nơi, dễ dàng tiếp cận thông tin (tích hợp các thiết bị di động thông minh)11. Đồng thời, triển khai các dự án xây dựng một số thành phố thông minh: New Songdo, Dongtan Hwaseong, Saemangeum, Sejong, Busan, v.v. “Các công nghệ mới nhất và tiên tiến nhất sẽ được sử dụng để thu thập dữ liệu và cung cấp thông tin giúp điều hành thành phố tốt hơn và cho phép giới chức cũng như cư dân sử dụng thời gian và các nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Những người sống ở các thành phố thông minh mới sẽ tiết kiệm tới 124 giờ/năm trong việc đi lại, đợi làm các thủ tục hành chính hay chờ xếp hàng tại bệnh viện”12. Tháng 6/2021, Chính phủ Hàn Quốc đã công bố Kế hoạch tổng thể về Chiến lược Chính quyền số giai đoạn 2021 - 2025 nhằm tìm cách tiếp tục xây dựng một hệ sinh thái số toàn diện cho dữ liệu công và các dịch vụ công để cải thiện cuộc sống hằng ngày của công dân.
Thứ ba, thể chế pháp lý cho chính quyền số phải đảm bảo tính ổn định, phù hợp và khả thi
Quá trình xây dựng chính quyền số ở Hàn Quốc đã được xác định theo lộ trình tổng thể và chia thành các giai đoạn khác nhau với những mục tiêu cụ thể và cao hơn so với các giai đoạn trước đó. Ngay từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng chiến lược phát triển chính quyền điện tử và từng bước chuyển dần sang chính quyền số theo các giai đoạn sau: (1) giai đoạn thứ nhất (1987 - 2000); (2) giai đoạn thứ hai (2001 - 2002); (3) giai đoạn thứ ba (2003 - 2007); (4) giai đoạn thứ tư (2007 - 2015); (5) giai đoạn thứ năm (2016 đến nay). Trong quá trình này, hệ thống pháp luật về chính phủ số tiếp tục được hoàn thiện, trên cơ sở kế thừa những cơ sở pháp lý trước đó và tiếp tục bổ sung cho phù hợp với mục tiêu và điều kiện kinh tế - xã hội, công nghệ và trình độ dân trí của Hàn Quốc.
Nếu như Luật Thúc đẩy tin học năm 1995 đã thúc đẩy phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong khu vực công, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước, để từng bước giảm bớt giấy tờ, thủ tục và “tăng tốc” giải quyết thủ tục hành chính, thì Luật Chính quyền điện tử năm 2001 đã định hình những nguyên tắc, mục tiêu và nền tảng cơ bản để xây dựng chính phủ điện tử. Luật này tiếp tục được sửa đổi, bổ sung vào các năm sau đó (từ các năm 2002, 2003 và từ năm 2006 đến năm 2017), nhiều điều trong luật này đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc biệt, luật này hiện nay chú trọng đến việc bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng trước các vấn nạn, như: vi phạm quyền riêng tư, rò rỉ thông tin cá nhân, tội phạm máy tính, tội phạm trên không gian mạng13. Dựa trên nguyên tắc xử lý điện tử, các phương thức giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp không cần xuất hiện tại các cơ quan công quyền (Điều 4) để giải quyết mà công việc của họ được thực hiện theo phương thức điện tử (Điều 7); công dân nộp đơn và khai báo hoặc nộp các tài liệu điện tử và các cơ quan hành chính cũng phản hồi người dân bằng các tài liệu điện tử thông qua các phương tiện công nghệ thông tin và truyền thông; các quy trình nộp đơn, thông báo, gửi và phản hồi đều được thực hiện tuân thủ quy trình do các văn bản pháp luật quy định (Điều 9). Đây là biểu hiện ban đầu của nền công vụ số mà Hàn Quốc từng bước được định hình.
Bên cạnh đó, Luật Chính quyền điện tử còn quy định việc giảm các loại văn bản, giấy tờ hành chính truyền thống mà thay vào đó là phải số hóa hết các loại văn bản, giấy tờ, thủ tục này và đưa nó lên môi trường mạng: “để giảm bớt văn bản giấy, người đứng đầu từng cơ quan hành chính, v.v. sẽ sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung các Đạo luật và các quy chế, chỉ thị, v.v. quy định việc áp dụng, báo cáo, đệ trình, thông báo, hoặc thông cáo dưới dạng thể thức phù hợp để cho phép nộp các giấy tờ đó bằng phương tiện điện tử, ngoại trừ trường hợp ngoại lệ do hoàn cảnh” (khoản 3, Điều 33)14. Ngoài ra, luật này còn yêu cầu thành lập Trung tâm chia sẻ thông tin hành chính công do Bộ trưởng Bộ Nội vụ và An ninh quyết định (Điều 37).
Thứ tư, đảm bảo tính chuẩn mực, không hồi tố, minh bạch và chuẩn hóa về kỹ thuật trong xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số
Quá trình xây dựng và ban hành Luật Chính quyền điện tử cho thấy, việc xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số ở Hàn Quốc được thực hiện rất thận trọng, bài bản, theo đúng quy trình lập pháp và công khai, minh bạch để tạo sự đồng thuận rộng rãi trong xã hội. Hơn nữa, nội dung của các văn bản pháp luật này được quy định chặt chẽ, rõ ràng, các thuật ngữ kỹ thuật được giải thích cặn kẽ, như: chính phủ điện tử, dịch vụ hành chính công điện tử, văn bản điện tử, văn bản được số hóa, chữ ký số, v.v. Ngoài ra, nội dung của các quy định pháp luật này không áp dụng hồi tố, những quy định này chỉ áp dụng cho các hành vi tại thời điểm văn bản pháp luật đó có hiệu lực trở về sau.
Thứ năm, xây dựng thể chế pháp lý đặc thù cho chính quyền số
Một là, Điều 12 Luật Chính quyền điện tử của Hàn Quốc năm 2001 quy định người đứng đầu trong cơ quan hành chính phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin hành chính trên môi trường điện tử: “cung cấp riêng cho công dân những thông tin liên quan đến trình tự, thủ tục giải quyết các kiến nghị dân sự trên mạng Internet, chẳng hạn như: các hành vi liên quan đến các kiến nghị dân sự và các thủ tục xử lý đơn dân sự và các thông tin chuyên biệt khác liên quan đến đời sống của công dân được ban hành bởi văn bản pháp lý của Quốc hội, Tòa án Tối cao, Tòa án Hiến pháp, Ủy ban Bầu cử Quốc gia hoặc sắc lệnh của Tổng thống”15. Bên cạnh đó, Hàn Quốc đã “quy định trách nhiệm pháp lý đối với việc sử dụng phương tiện bay không người lái (drone) để chụp ảnh chân dung, thân thể hoặc nơi cư trú của người khác mà không có sự đồng ý. Hành vi này là vi phạm Luật bảo vệ quyền riêng tư. Nếu chụp ảnh thân thể gây tổn hại tinh thần của người khác thì có thể bị xử phạt theo Luật Đặc biệt về xử lý tội phạm xâm hại tình dục”16.
Ngoài ra, những năm gần đây, Hàn Quốc còn “ban hành các văn bản pháp lý khác như: Luật Quảng cáo trên các phương tiện phát thanh, truyền hình; Luật Bảo hộ dữ liệu cá nhân; Luật Khuyến khích sử dụng hệ thống truyền thông điện tử; Luật Sử dụng và bảo hộ thông tin tín dụng và Luật Sử dụng và bảo hộ thông tin về địa chỉ; Luật Tên thật trong giao dịch tài chính và bảo đảm bí mật tài chính; Luật Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử; Luật Trách nhiệm sản phẩm... Đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Hàn Quốc quy định người có hành vi vi phạm sáng chế có thể bị phạt tù tới 7 năm hoặc bị phạt tiền tới 100 triệu won; đối với nhãn hiệu thương mại, việc bảo hộ được thực hiện theo quy định của Luật Nhãn hiệu thương mại, riêng đối với các thương hiệu nổi tiếng, việc bảo hộ được thực hiện theo quy định tại Luật Bảo hộ bí mật thương mại và ngăn ngừa hành vi cạnh tranh không lành mạnh”17.
Hai là, để xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về chính quyền số, Hàn Quốc đã tiến hành lấy ý kiến công khai từ nửa cuối năm 1998 đối với dự thảo Luật Chính quyền điện tử. Thời gian đầu, do sự bất đồng chính kiến giữa Chính phủ, Quốc hội và các đảng phái nên dự luật này đã không được thông qua. Trước tình hình đó, từ năm 2000, Bộ Hành chính công và Nội vụ Hàn Quốc tiến hành xây dựng dự thảo mới Luật Chính quyền điện tử, trong quá trình này đã thẩm định kỹ lưỡng và lấy ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đặc biệt các chuyên gia công nghệ, các chuyên gia pháp lý và các doanh nghiệp. Ngày 1/7/2001, dự thảo Luật Chính quyền điện tử đã được Quốc hội Hàn Quốc thông qua; sau đó luật này tiếp tục được sửa đổi, bổ sung cho đến năm 2017.
Ba là, trong những năm qua, ngoài Luật Chính quyền điện tử, Hàn Quốc đã ban hành thêm bốn đạo luật quan trọng khác là: Luật Chữ ký số; Luật Khung về văn bản điện tử và các giao dịch điện tử; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử; Luật Giao dịch tài chính điện tử. Đặc biệt, Bộ luật Thúc đẩy công nghệ thông tin truyền thông và đẩy mạnh hội tụ công nghệ quy định chính quyền trung ương và địa phương về nguyên tắc cho phép và có trách nhiệm đẩy mạnh việc thực hiện các hoạt động kỹ thuật, dịch vụ nếu các hoạt động này không vi phạm các quy định pháp luật có liên quan, ví dụ như hoạt động hội tụ công nghệ thông tin truyền thông tiên tiến. Đây là cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát được Hàn Quốc áp dụng nhằm đưa ra những quy định áp dụng thử nghiệm có giới hạn trong vận hành nền hành chính số. Các cơ quan chức năng có quyền tạo lập ra các “Khu pháp lý đặc biệt” (Regulatory Free Zone - RFZ). RFZ là “khu vực miễn trừ pháp lý đặc biệt, chỉ được thành lập và vận hành tại một số vùng nhất định. Các lĩnh vực kinh doanh sáng tạo mới hoặc ngành công nghiệp chiến lược được triển khai trong khu vực này nếu gặp khó khăn do quy định hiện hành, có thể được cấp giấy phép triển khai tạm thời hoặc được miễn trừ áp dụng một phần hoặc toàn bộ các quy định nếu vì mục đích kiểm thử các sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới. RFZ được lựa chọn theo tiêu chí là khu vực cần phát triển công nghiệp (không lựa chọn các thành phố trực thuộc trung ương) nhằm hướng tới sự phát triển cân bằng trên toàn lãnh thổ. Tại Hàn Quốc, Luật riêng về Khu pháp lý đặc biệt được áp dụng từ ngày 17/04/2019”18.
Như vậy, Hàn Quốc đã có kế hoạch hành động khá bài bản để xây dựng chính quyền số, đặc biệt ở phương diện xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý. Điều này khẳng định rõ vai trò của thể chế pháp lý đối với xây dựng chính quyền số.
2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Việc xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số ở Hàn Quốc có thể cung cấp nhiều giá trị tham khảo quý báu cho Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng chính quyền số. Dưới đây là một số giá trị tham khảo từ thực tiễn xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số ở Hàn Quốc mà Việt Nam có thể áp dụng:
Thứ nhất, Việt Nam có thể học Hàn Quốc cách xây dựng một luật riêng biệt về chính quyền số, đảm bảo rằng các quy định pháp lý có tính hệ thống và toàn diện, bao quát các vấn đề về bảo mật thông tin, quản lý dữ liệu công, bảo vệ quyền lợi công dân trong môi trường số, cũng như các cơ chế giám sát và kiểm tra; quy định chặt chẽ về quản lý, khai thác, chia sẻ dữ liệu số.
Thứ hai, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về bảo mật và quyền riêng tư; quy định chặt chẽ các biện pháp thu thập, lưu trữ và chia sẻ dữ liệu công dân để đảm bảo sự an toàn trong môi trường số.
Thứ ba, Chính phủ Việt Nam nghiên cứu ban hành Chương trình tổng thể xây dựng chính quyền số với tầm nhìn từ 10 đến 20 năm, trong đó xác định rõ khung chính quyền số; các nền tảng của chính quyền số; trách nhiệm của các cơ quan, các cấp chính quyền; các mục tiêu cần đạt được trong từng giai đoạn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí và mức độ hoàn thiện hạ tầng, nền tảng số.
Thứ tư, Việt Nam cần nghiên cứu áp dụng cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát trong quá trình xây dựng chính quyền số, trong đó tập trung vào lĩnh vực tài chính, lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo. Đây là những lĩnh vực “chưa có tiền lệ”, bản thân Hàn Quốc đã và đang áp dụng cơ chế này để xây dựng hành lang pháp lý cho chính quyền số.
Việc xây dựng thể chế pháp lý cho chính quyền số ở Hàn Quốc mang lại nhiều bài học quý giá cho Việt Nam. Các kinh nghiệm này không chỉ giúp Việt Nam thúc đẩy chuyển đổi số hiệu quả mà còn đảm bảo chính quyền số được phát triển bền vững, bảo vệ quyền lợi của công dân và nâng cao sự minh bạch trong hoạt động của chính quyền các cấp.
----------
Bài đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học chính trị số 2 (44) - 2025
1 Đặng Viết Đạt: Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ “Sự tham gia của người dân trong xây dựng chính quyền số ở cấp cơ sở vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Học viện Chính trị khu vực IV, 2024, tr.39.
2, 5, 7, 8, 9, 10, 13 Choong-Sik Chung and Sung-Bou Kim: A Comparative Study of Digital Government Policies, Focusing on E-Government Acts in Korea and the United States, https://www.mdpi.com/2079-9292/8/11/1362/htm, truy cập ngày 20/01/2025.
3 Korea (Republic of)’s Constitution of 1948 with Amendments through 1987, https://constituteproject.org/constitution/Republic_of_Korea_1987.pdf, truy cập ngày 10/02/2025, p.6.
4, 6, 14, 15, 16 Korean Legislation Research Institution: Electronic Government Act, https://elaw.klri.re.kr/eng_service/lawTwoView.do?hseq=17369, truy cập ngày 10/02/2025.
11, 12 Đức Huy: Hàn Quốc xây thành phố thông minh mẫu, xuất khẩu ra thế giới, https://nongnghiep.vn/han-quoc-xay-thanh-pho-thong-minh-mau-xuat-khau-ra-the-gioi-post236561.html, truy cập ngày 14/02/2019.
17, 18 Lê Phúc: Môi trường pháp lý kinh doanh có gì đặc biệt ở New Zealand, Hàn Quốc và Đan Mạch, https://phaply.net.vn/moi-truong-phap-ly-kinh-doanh-co-gi-dac-biet-o-cac-nen-kinh-te-de-kinh-doanh-nhat-the-gioi-nam-2020-ki-1-a216451.html, truy cập ngày 15/12/2024.