ThS NGUYỄN THỊ NGỌC CẢNH
Học viện Chính trị khu vực III
(TTKHCT) - Trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, các nguyên tắc xây dựng Đảng luôn rất quan trọng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng ta gắn liền với sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước. So với các kỳ Đại hội trước, Đại hội lần thứ XIII của Đảng bổ sung quan điểm chỉ đạo: “Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”. Đây là điểm mới cần tiếp tục được quán triệt, thực hiện và phát huy để công tác xây dựng Đảng đi vào chiều sâu, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay.
(Nguồn: dangcongsan.vn)
1. Khái quát các nguyên tắc xây dựng Đảng và tình hình thực hiện trong thời gian qua
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; Đảng giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”1. Kiên định các nguyên tắc chính là cơ sở để Đảng ta đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đề ra; biến chủ trương của Đảng thành thực tế trong cuộc sống.
Để có năm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng hoàn chỉnh như hiện nay, đó là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng của Đảng ta qua các thời kỳ của cách mạng: (1) nguyên tắc tập trung dân chủ (có từ khi thành lập Đảng năm 1930); (2) nguyên tắc tự phê bình và phê bình (được bổ sung ở Đại hội lần thứ II, năm 1951); (3) nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng (bổ sung ở Đại hội lần thứ III, năm 1960); (4) nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân (bổ sung ở Đại hội lần thứ X, năm 2006); (5) nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật (bổ sung ở Đại hội lần thứ X, năm 2006).
Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, bảo đảm cho Đảng trong sạch, vững mạnh và hoàn thành trọng trách là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Đảng ta đang quyết tâm, quyết liệt xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện2, việc kiên định và thực hiện các nguyên tắc nêu trên là cơ sở quan trọng để giữ vững kỷ luật Đảng. Một trong các quan điểm được Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh là “Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3. Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nêu rõ: “Kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc về xây dựng Đảng”4 và chỉ ra những ưu điểm trong thực hiện các nguyên tắc như: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã gương mẫu, nghiêm túc thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình; đồng thời, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, chú trọng gợi ý kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân có biểu hiện vi phạm5; “Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”6; “Công tác tiếp dân và đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền từng bước đi vào nền nếp”7; “Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp và nhân dân theo các quyết định của Bộ Chính trị được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực”8; “Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã chỉ đạo quyết liệt, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật”9.
Tuy nhiên, việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm như Văn kiện Đại hội lần thứ XIII chỉ ra: “Vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng; (...) gây mất đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân”10; “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm”11; “Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng. Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới”12; “Việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa kịp thời, chưa sát thực tế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số chủ trương, nghị quyết có nơi, có lúc chưa quyết liệt, còn yếu kém, chậm trễ nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu”13; “Sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được coi trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu”14; “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức”15; “Công tác dân vận của Đảng có nơi, có lúc còn hạn chế; việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là ở những địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát. Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập”16; “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu thực hiện pháp luật, thậm chí coi thường, cố ý làm trái pháp luật. Một số cán bộ vi phạm pháp luật đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”17. Điều đáng lưu ý là rất nhiều vi phạm xảy ra từ nhiệm kỳ trước nhưng đến nay mới bị phát hiện và xử lý. Chỉ riêng những kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương từ đầu nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII của Đảng đến nay cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm nghiêm trọng từ lâu, chủ yếu là thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát dẫn đến gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước; suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; vi phạm các quy định trong công tác cán bộ, quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản; tham nhũng; v.v.. Bên cạnh những vi phạm nghiêm trọng, khá nhiều cán bộ, đảng viên có những khuyết điểm, như độc đoán, gia trưởng, sa ngã vào tệ nạn xã hội, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu. Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra giám sát của Đảng năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024 chỉ rõ: trong năm 2023, Ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản, thu nhập đối với 7.393 đảng viên; qua kiểm tra, giám sát kết luận 239 đảng viên (chiếm 3,23% số đảng viên được kiểm tra) có vi phạm, khuyết điểm. Một số vi phạm, khuyết điểm được chỉ ra như giải trình về nguồn gốc tài sản, thu nhập chưa đầy đủ, rõ ràng, kê khai tài sản không đầy đủ thông tin, không thống nhất, không đúng theo mẫu, không đúng hình thức quy định, v.v. để các tổ chức đảng, đảng viên khắc phục, rút kinh nghiệm. Cấp ủy các cấp và chi bộ đã thi hành kỷ luật 423 tổ chức đảng (tăng 2,92% so với năm 2022); thi hành kỷ luật 18.130 đảng viên (tăng 10,64% so với năm 2022), có 3.073 cấp ủy viên (chiếm 16,94%). Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 183 tổ chức đảng và 6.302 đảng viên, có 1.975 cấp ủy viên (chiếm 31,34%), trong đó, Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị thi hành kỷ luật 154 tổ chức đảng và 6.237 đảng viên; Ủy ban kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 29 tổ chức đảng và 65 đảng viên18.
Thực trạng này do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là việc tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa được coi trọng và thực hiện nghiêm túc. Từ thực tiễn 35 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã rút ra năm bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ nhất là: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”19.
2. Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một trong những quan điểm cơ bản, trọng yếu, xuyên suốt và bao trùm trong hệ thống quan điểm lý luận của Đảng, liên quan trực tiếp đến hệ tư tưởng của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh người làm cách mạng “phải giữ chủ nghĩa cho vững”20, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt (…), chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”21. Vì vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề hệ trọng đầu tiên để giữ vững bản chất của một đảng cách mạng chân chính, liên quan trực tiếp, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Tại Đại hội lần thứ VI (1986), khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định: “Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đó là đổi mới có nguyên tắc, là kiên định con đường đã lựa chọn - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng ta nêu rõ, nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải ra sức bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh, phản bác sự xuyên tạc, truyền bá các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực chống đối và phản động ở trong và ngoài nước nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Phải kiên trì lý tưởng và mục tiêu, kiên định con đường đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản, bất luận trong hoàn cảnh và tình huống nào.
Như vậy, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được nhận thức từ rất sớm và ngày càng trở thành công việc liên tục, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt, việc lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng được thể hiện đậm nét nhất trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Bộ Chính trị Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan báo chí tuyên truyền các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nhận thức sâu sắc sự nguy hại và hậu quả nghiêm trọng của việc xa rời nền tảng tư tưởng, Báo cáo chính trị đặt lên hàng đầu quan điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”22.
Có thể nói, quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong hơn chín thập kỷ qua với mười ba lần đại hội đã cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn kiên trì, kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng và luôn kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Thời gian tới, đất nước ta đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen. Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra từ Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII vẫn hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII nêu rõ nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới là “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”23.
Để tiếp tục kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thiết nghĩ cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên cần nhận thức đầy đủ, đúng nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc xây dựng Đảng
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xem nhẹ hay cố tình vi phạm các nguyên tắc xây dựng Đảng trong thời gian qua là do nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc đó. Vì vậy, để tiếp tục kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên cần có nhận thức đầy đủ, đúng nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Một là, đối với nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong năm nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Đảng; được xem là nguyên tắc căn bản chi phối các nguyên tắc khác. Tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hòa và khoa học giữa hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện là tiền đề của tập trung; tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Trong nguyên tắc tập trung dân chủ, tập trung và dân chủ quy định lẫn nhau. Tập trung mà không có dân chủ thì sẽ trở thành tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán; còn dân chủ mà không đi tới tập trung thì sẽ rơi vào tình trạng dân chủ vô tổ chức, hỗn loạn. Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định tổ chức đảng các cấp quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, tuy nhiên không được nhân danh tổ chức đảng ra nghị quyết trái với nguyên tắc, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng được quy định tại Điều 9, Điều lệ Đảng khóa XI.
Hai là, đối với nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình không những là vũ khí sắc bén mà còn là động lực bên trong giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Tự phê bình và phê bình phải khách quan, trung thực, thẳng thắn, công khai, chân thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”24. Do đó, tự phê bình và phê bình cần tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên, phê bình việc chứ không phê bình người và phê bình phải thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày”. Trong nguyên tắc tự phê bình và phê bình cần chú ý tự phê bình và phê bình diễn ra trong phạm vi sinh hoạt đảng. Chỉ trong sinh hoạt đảng thì đảng viên mới được lấy tư cách là đảng viên để phê bình đồng chí của mình và phê bình các tổ chức của Đảng. Ngoài phạm vi sinh hoạt đảng thì không được nhân danh đảng viên để phê bình đồng chí và tổ chức đảng của mình. Mục đích của tự phê bình và phê bình là nhằm giáo dục, rèn luyện đảng viên, làm cho bản thân và đồng chí của mình không ngừng tiến bộ; phê bình không phải để nói xấu; đả kích, hạ uy tín của đồng chí mình mà hơn hết là phải mang tính chất xây dựng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ”25.
Ba là, đối với nguyên tắc đoàn kết thống nhất. Xây dựng, củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, là trách nhiệm lớn lao của toàn thể cán bộ, đảng viên, trước hết là của những cán bộ chủ chốt. Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự đoàn kết thống nhất thì mới đảm bảo sự lãnh đạo, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng đến bến bờ thắng lợi. Do đó, mỗi đảng viên phải nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí, tầm quan trọng của sự đoàn kết thống nhất, tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng, năng lực hoạt động để góp sức xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đồng tâm nhất trí, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết thống nhất tức là nội bộ không có phe nhóm; là sự bàn bạc, thảo luận dân chủ mọi công việc của tổ chức đó; khi nghị quyết ban hành theo đa số của những người có ý thức tổ chức thì mọi thành viên phải tự giác chấp hành vô điều kiện. Hạt nhân của khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng là Ban Chấp hành Trung ương Đảng, là cấp ủy đảng các cấp. “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”26.
Bốn là, nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân. Nguyên tắc này yêu cầu mọi tổ chức đảng, đảng viên phải thường xuyên liên hệ, lắng nghe, tuyên truyền, vận động nhân dân; phục vụ nhân dân; dựa vào nhân dân để tổ chức và hoạt động. Phải kiên quyết ngăn ngừa và khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời nhân dân. Mọi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm nhiệm vụ công tác dân vận, chế độ phụ trách cơ sở, đi cơ sở, tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân.
Năm là, nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Thực chất Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật chính là quá trình chấp hành, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Để thực hiện đúng nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, các tổ chức đảng cần chú ý khi quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình thì không được ra nghị quyết, chỉ thị trái với Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Các đảng viên đảm nhận các chức vụ lãnh đạo và thực hiện công vụ theo chế độ trách nhiệm luật pháp quy định, không được lợi dụng quyền uy của Đảng, đặt mình lên trên pháp luật để làm trái Hiến pháp và pháp luật.
Thứ hai, cụ thể hóa các nguyên tắc xây dựng Đảng thành quy chế, quy định trong Đảng và pháp luật của Nhà nước
Một trong những nguyên nhân làm cho việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng thời gian qua chưa tốt là do thiếu những quy định cụ thể, dẫn đến sự tùy tiện, sai lệch, làm biến dạng nguyên tắc trong quá trình thực hiện. Vì vậy, cần cụ thể hóa các nguyên tắc xây dựng Đảng thành quy chế, quy định trong Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đối với nguyên tắc tập trung dân chủ, cần tiếp tục cụ thể hóa vào quy chế làm việc của cấp ủy, các quy chế, quy định trong công tác tư tưởng, công tác cán bộ, tổ chức, lãnh đạo. Tập trung xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu, cán bộ phụ trách; mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với người đứng đầu; chế độ bảo lưu ý kiến thiểu số. Đối với nguyên tắc tự phê bình và phê bình, phải tiếp tục thực hiện và bổ sung hoàn thiện quy định về chế độ tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên; về chế độ chất vấn trong Đảng; về khuyến khích, bảo vệ người phê bình, tố cáo. Đối với nguyên tắc đoàn kết thống nhất, cần có quy chế về chế độ thảo luận và xử lý những nội dung, các ý kiến còn khác nhau; những dấu hiệu nhận biết mất đoàn kết trong Đảng. Đối với nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế, quy định về chế độ phân công cấp ủy viên phụ trách cơ sở; chế độ tiếp dân; cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đối với nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, cần bổ sung thêm các điều cấm đối với đảng viên liên quan đến thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Thứ ba, phát huy tinh thần tự giác trong thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng của cán bộ, đảng viên
Trên cơ sở nhận thức đúng về các nguyên tắc xây dựng Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác, gương mẫu trong thực hiện các nguyên tắc. Bởi lẽ, việc kiên định, thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng vừa là trách nhiệm, vừa là cách tốt nhất để bảo vệ mỗi cán bộ, đảng viên trước các sai phạm trong quá trình làm việc, công tác. Vì thế, việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng phải được quán triệt trong tất cả các đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy các cấp. Bất kỳ sự vi phạm nào cũng có thể không chỉ gây ra những hậu quả cho bản thân đảng viên đó mà còn cho tổ chức đảng và toàn Đảng nói chung. Do đó, mỗi đảng viên phải nắm bắt đầy đủ nội dung của các nguyên tắc và thực hiện nghiêm túc, tự giác, thường xuyên, liên tục, dù ở vị trí nào. Đồng thời, mỗi người phải xây dựng cho mình ý thức tự giác về việc bảo vệ các nguyên tắc của Đảng, xem đó là bảo vệ sinh mệnh chính trị của mình, bởi nếu trong tổ chức đảng của mình có vi phạm nguyên tắc thì bản thân không thể đứng ngoài. Có như vậy thì mới mạnh dạn đấu tranh, chấn chỉnh, khắc phục ngay những biểu hiện lệch lạc, có dấu hiệu vi phạm, từ đó hạn chế để xảy ra vi phạm nghiêm trọng.
Thứ tư, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của đảng viên, của chi bộ, của ủy ban kiểm tra các cấp trong việc kiểm tra, giám sát thường xuyên hoặc khi có dấu hiệu vi phạm trong việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng
Cấp ủy, chi bộ cần có chương trình kiểm tra, giám sát về thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng. Thông qua kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những thiếu sót, sơ hở trong quy định thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng và sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; đồng thời giáo dục, ngăn chặn kịp thời các khuyết điểm, sai phạm của đảng viên. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần hướng vào kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm các nguyên tắc xây dựng Đảng để giáo dục, ngăn chặn, không chờ vụ việc xảy ra mới kiểm tra, nhất là những nơi có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Mặt khác, phải coi trọng việc xem xét xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời đối với những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết, tham nhũng, gây chia rẽ, bè phái, làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, quan liêu, vi phạm pháp luật, bị dư luận phê phán, làm mất lòng tin của nhân dân.
3. Kết luận
Bước vào thời kỳ mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tăng cường đoàn kết, chung sức, đồng lòng “Giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”27, dẫn dắt công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước giàu mạnh mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”28.
---------
Bài viết được đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học chính trị số 3 (39) - 2024
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.5.
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 13, 14, 15, 17, 16, 23 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.325, 324, 165, 175, 202, 204, 204 - 205, 209, 178 - 179, 225, 168, 190, 179, 179, 205 - 206, 231.
12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.27.
18 Hiền Hòa, Phạm Cường: Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra giám sát của Đảng, https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-cong-tac-kiem-tra-giam-sat-cua-dang-656580.html, truy cập ngày 27/12/2023.
19, 22, 28 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.95, 109, 111 - 112.
20, 21 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.280, 289.
24, 25 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.261, 272.
26 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.510.
27 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.612.