PGS, TS VŨ QUANG VINH
ThS CAO DUY TIẾN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(TTKHCT) - Trong hành trình đổi mới, Đảng luôn xác định nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong đó xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm. Thực hiện chủ trương đó, trong các kỳ Đại hội và các Hội nghị Trung ương, đường lối, chủ trương, nghị quyết về phát triển kinh tế luôn được Đảng đặc biệt chú trọng. Thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong những năm đổi mới là minh chứng hùng hồn về sự đúng đắn và hiệu quả của đường lối cũng như phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. (Ảnh: tuyengiao.vn)
1. Đối với nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đột phá đặc biệt quan trọng về lý luận và lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá trình đổi mới là xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước Đại hội lần thứ VI của Đảng, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Những tìm tòi đổi mới theo hướng kinh tế thị trường đã xuất hiện nhưng chỉ ở cấp vi mô, phạm vi hẹp, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ nên không mang lại kết quả rõ rệt. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn: Sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan và cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là bước đột phá quan trọng trong đổi mới tư duy của Đảng, tạo cơ sở lý luận cho việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cho thấy, kinh tế thị trường có khả năng thích ứng với các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau và rất đa dạng theo đặc thù của mỗi nước. Trên thế giới có kinh tế thị trường tự do Mỹ, kinh tế thị trường xã hội Đức, kinh tế thị trường Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. Phù hợp với quy luật khách quan, thực tế đất nước, thuận theo xu thế thời đại, Đảng lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu nhằm giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”1.
Đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có bước phát triển mới: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động. Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”2.
Quá trình Đảng lãnh đạo đổi mới tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện qua những bước chuyển trong hơn 35 năm qua: 1) Bước chuyển từ sản xuất theo mô hình tập trung, kinh tế hiện vật, phi thị trường sang sản xuất theo mô hình kinh tế hàng hóa, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển và từng chính sách; 2) Bước chuyển từ đơn sở hữu với sự phân biệt đối xử sang đa sở hữu, đa thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật; 3) Bước chuyển từ quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, làm cho con người ỷ lại, thụ động, sang quản lý theo cơ chế thị trường, đòi hỏi tính năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm; 4) Bước chuyển từ phân phối bình quân, cào bằng, sang đa dạng hóa hình thức và thành phần phân phối; 5) Bước chuyển từ không chấp nhận bóc lột, không chấp nhận phân hóa giàu nghèo sang chấp nhận có sự bóc lột và phân hóa giàu nghèo ở mức độ nhất định; từ quan điểm đảng viên không được làm kinh tế tư nhân sang đảng viên được làm kinh tế tư nhân theo quy định của Đảng; 6) Bước chuyển từ quan điểm kinh tế “khép kín”, cấm chợ, ngăn sông sang mở cửa, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; 7) Bước chuyển từ quan điểm “Nhà nước làm thay thị trường”, “Nhà nước làm tất cả” sang quan điểm Nhà nước chủ yếu thực hiện nhiệm vụ quản lý, kiến tạo môi trường phát triển.
Trong đó, bước chuyển về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng không cách biệt, mà là những bước đi kế tiếp, có sự liên kết, tác động đan xen nhau. Điều đó đã tạo thành một hệ thống lý luận thực tiễn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một trong những nội dung trọng yếu của sự nghiệp đổi mới. Cùng với những thành tựu đã đạt được, nhận thức lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn một số hạn chế. Thứ nhất, chưa hình thành được khung lý luận đầy đủ và hệ thống về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về một số nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường. Nhận thức chưa đủ rõ về bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các chủ thể của kinh tế thị trường. Thứ hai, chưa xây dựng được khuôn khổ đầy đủ, hoàn thiện về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thể chế kinh tế thị trường vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán nên một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định. Thứ ba, còn lúng túng và chậm trễ trong việc cụ thể hóa lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành chính sách cụ thể. Thứ tư, chưa xác định được những tiêu chí cụ thể và có sức thuyết phục khi nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thứ năm, chưa xác định thật rõ động lực mới để phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
2. Một số thành tựu và vấn đề đặt ra
Trong công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Thứ nhất, đã thể chế hóa (Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật) về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong những năm qua, Quốc hội đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành hơn 70 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam ngày càng được hoàn thiện tạo khung khổ pháp luật để thực hiện quyền kinh doanh, phát triển kinh tế nhiều thành phần, xác định chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, xác định rõ đơn vị pháp lý của doanh nghiệp; từng bước hài hòa hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, phát triển lực lượng sản xuất. Sau gần 40 năm đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đặc biệt là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế tăng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt kết quả tích cực. Nền kinh tế đã có bước chuyển dịch rõ nét theo hướng công nghiệp hóa, tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ không ngừng nâng lên. Cơ cấu ngành, lĩnh vực và cơ cấu vùng cũng có bước chuyển theo hướng phát huy lợi thế so sánh của ngành, lĩnh vực và vùng, thúc đẩy tăng trưởng đồng bộ của nền kinh tế. Lao động và tư liệu sản xuất tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Tổng đầu tư xã hội cũng như tỷ trọng vốn đầu tư xã hội so với GDP tăng liên tục và duy trì ở mức cao; hệ thống kết cấu hạ tầng có bước phát triển nhanh chóng.
Thứ ba, phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Do thực hiện tốt chủ trương, chính sách tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, nên chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện, xếp thứ 128/187 nước trên thế giới, năm 2020: “HDI năm 2016 đạt mức 0,682 và tăng lên 0,706 năm 2020 tức là từ nhóm trung bình lên nhóm có HDI cao của thế giới. Các chỉ số thành phần cũng có bước cải thiện đáng kể, đơn cử như chỉ số sức khỏe tăng từ 0,822 năm 2016 lên 0,826 năm 2020. Chỉ số giáo dục tăng tương ứng từ 0,618 lên 0,640 và chỉ số thu nhập tăng tương ứng từ 0,624 lên 0,664”3; tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 74,8, xếp thứ 54 thế giới. Mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên; an sinh xã hội ngày càng được mở rộng; tốc độ giảm nghèo nhanh và liên tục qua các năm, giáo dục, y tế, văn hóa có bước phát triển.
Thứ tư, hoàn thiện từng bước chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và chế độ phân phối đã phát triển đa dạng, từng bước tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và phù hợp với điều kiện của đất nước. Các chủ thể kinh tế tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật, ngày càng phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước từng bước phát huy vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại, cổ phần hóa và giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, hình thành các hình thức hợp tác kiểu mới phù hợp với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp lớn vào GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, có đóng góp quan trọng vào việc giải quyết việc làm và xuất khẩu.
Thứ năm, phát triển các loại thị trường. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường đang hình thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên thông, gắn kết thị trường trong nước với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ tăng về số lượng, chủng loại, chất lượng. Thị trường tài chính – tiền tệ phát triển khá sôi động. Thị trường bất động sản phát triển mạnh. Thị trường khoa học – công nghệ đang hình thành và phát triển.
Thứ sáu, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Về quan hệ kinh tế song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với 170 quốc gia, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hóa với trên 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 100 hiệp định thương mại song phương, trên 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và nhiều hiệp định hợp tác song phương với các nước và tổ chức quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động để quy mô xuất khẩu không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 2001 là năm đầu tiên của thế kỷ XXI ghi nhận tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam mới chỉ ở con số khiêm tốn hơn 30 tỷ USD. Sau 6 năm, đến năm 2007, tổng trị giá xuất nhập khẩu cả nước đã đạt con số 100 tỷ USD, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới. Bốn năm sau, năm 2011 ghi nhận tổng trị giá xuất nhập khẩu đã tăng gấp đôi, đạt con số 200 tỷ USD. Trong 4 năm tiếp theo, đến năm 2015 xuất nhập khẩu Việt Nam cũng đã cán mốc trị giá 300 tỷ USD. Cột mốc 400 tỷ USD của xuất nhập khẩu hàng hóa được ghi nhận vào giữa tháng 12/2017, cột mốc 500 tỷ USD được ghi nhận vào giữa tháng 12/2019, cột mốc 600 tỷ USD được ghi nhận vào ngày 30/11/2021. Một cột mốc mới 700 tỷ USD sẽ được ghi nhận vào ngày 15/12/20224.
Thứ bảy, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đã xác lập được khung khổ pháp lý để bảo đảm Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế, hình thành và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu của bộ máy Chính phủ gọn nhẹ hơn; chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp hơn. Thủ tục hành chính và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước được đổi mới, hiệu lực, hiệu quả; kỷ luật, kỷ cương được tăng cường. Nhà nước điều hành thị trường chủ yếu bằng các công cụ kinh tế, hạn chế can thiệp hành chính, trực tiếp vào nền kinh tế.
Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển kinh tế. Đảng đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách kinh tế, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Những đổi mới về đường lối, quan điểm, chủ trương và phương thức lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội là định hướng chính trị cho việc ban hành cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Chính phủ. Đảng chú trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội trong các hoạt động lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Sau gần 40 năm đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt: “Khi bắt đầu thực hiện cải cách, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam là trên 70%. Đến năm 2020, tỷ lệ này giảm xuống còn 5% và hơn 10 triệu người đã thoát khỏi đói nghèo chỉ trong những năm 2010. GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng tăng gần gấp 10 lần, từ dưới 300 USD vào những năm 1980 lên 2.800 USD vào năm 2020”5. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; thế và lực của đất nước được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021) khẳng định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống Nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”6; đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tuy vậy, kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu và còn thiếu bền vững. Cơ cấu kinh tế chuyển biến chậm, môi trường kinh doanh chưa thật sự bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Quản trị doanh nghiệp còn yếu kém, chưa theo kịp các chuẩn mực quốc tế và chưa đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp, lãng phí thất thoát nhiều. Kinh tế tập thể yếu kém kéo dài. Kinh tế tư nhân phát triển chậm, doanh nghiệp quy mô nhỏ. Doanh nghiệp có vốn nước ngoài chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường.
Vấn đề đặt ra là để tiếp tục xây dựng và phát triển thành công kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Thực hiện tốt hơn phát triển bền vững kinh tế biển. Xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị. Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Việt Nam đang và cần xây dựng và phát triển đất nước trên ba trụ cột: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (mọi người dân, mọi doanh nghiệp hoạt động theo luật pháp và được luật pháp bảo đảm quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình một cách tốt nhất); nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tối đa năng lực của tất cả mọi người, tất cả doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, xuyên suốt là lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực phát triển, không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
3. Kết luận
Việt Nam có những điều kiện và có khả năng để xây dựng ngày càng vững mạnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với định hướng và chỉ đạo hoạt động đúng thời điểm, trúng mục tiêu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp cả ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa nhất định sẽ đưa đất nước phát triển không ngừng, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu bước đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang là một trong những nhân tố quyết định đưa vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới, phấn đấu: “Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”7.
---------
Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị số 2 (32) - 2023
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.102-103.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.59-60.
3 Minh Trang: Công bố Báo cáo Chỉ số phát triển con người của Việt Nam giai đoạn 2016-2020, https://www.mpi.gov. vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=52698&idcm=188, cập nhật ngày 06/01/2022.
4 Báo Bộ Công thương Việt Nam: Xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt mốc 700 tỷ USD, https://moit.gov. vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/ngay-15/12/2022-xuat- nhap-khau-hang-hoa-cua-viet-nam-dat-moc-700-ty-usd. htrnl, cập nhật ngày 15/12/2022.
5 Khánh Minh: Kỳ tích kinh tế đáng kinh ngạc của Việt Nam, https://laodong.vn/the-gioi/ky-tich-kinh-te-dang- kinh-ngac-cua-viet-nam-1100185.1do, cập nhật ngày 03/10/2022.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.103-104,112.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tập I, tr. 112.