TS LÂM THỊ KHO
Học viện Chính trị khu vực IV

(TTKHCT) - Cả cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng đến mục tiêu độc lập dân tộc, ấm no và hạnh phúc cho Nhân dân. Trong di sản của Hồ Chí Minh, tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đạt đến chiều sâu triết lý, gắn chặt giữa lý luận và thực tiễn cách mạng, có giá trị sâu sắc đối với dân tộc và nhân loại. Trên cơ sở khái quát những quan điểm mang tính sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, bài viết chỉ ra những giá trị của những quan điểm đó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

1. Những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Một là, sáng tạo trong việc lựa chọn đường lối giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản

Thời niên thiếu, với tình yêu nước và thương dân bị đọa đày đau khổ, Hồ Chí Minh đã ấp ủ hoài bão lớn là mong muốn tìm con đường giải phóng dân tộc, mang lại cơm no, áo ấm cho tất cả những người dân lao động. Cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước (1911-1920) đã làm chuyển biến sâu sắc tư tưởng của Người. Trải qua những hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và nhận thấy rõ hơn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm Con đường dẫn tôi đến với chủ nghĩa Lênin, Người đã viết: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”1. Trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, Hồ Chí Minh cũng đã nói rất rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”2. Luận điểm này của Người được khái quát trên cơ sở lý luận và thực tiễn khoa học. Người thấy rõ những hạn chế của các phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX; hạn chế trong các phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước tiền bối như: Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám. Người nhận định: “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương (...) điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì Cụ còn nặng cốt cách phong kiến”3. Sau khi tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới, Người cũng nhận thức rõ tính chất “không đến nơi” của cách mạng tư sản, điển hình là cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp. “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”4, vì cách mệnh đã thành công rồi nhưng dân chúng vẫn cứ cực khổ, vẫn lo tính làm cuộc cách mệnh lần nữa. Từ thực tiễn đến với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất” và “cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”5. Theo Hồ Chí Minh, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là phù hợp, đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của cách mạng Việt Nam, chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản mới đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.

Vậy, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam là gì? Trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”6. Từ năm 1949 về sau, Người cũng nói: “Những vấn đề thảo luận thì nhiều, nhưng đều hướng vào một đường đi: kháng chiến thắng lợi, xây dựng dân chủ mới để tiến tới chủ nghĩa xã hội”7.

Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội làm cho độc lập dân tộc được đảm bảo, chắc chắn hơn. Xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mang lại hạnh phúc, tự do cho Nhân dân. Vì vậy, phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ tiến trình cách mạng đầy tính nhân văn này. Đây chính là sự phát triển sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng – từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn đó cho thấy, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, bởi đó không chỉ là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, mà còn là cuộc cách mạng giải phóng con người, giải phóng xã hội. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam mới có khả năng huy động đến mức cao nhất sức mạnh của toàn thể dân tộc để đảm bảo thắng lợi. Thực tiễn lịch sử cách mạng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những thắng lợi vĩ đại. Ngày nay, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cũng đã đưa đến những thắng lợi mới của cách mạng Việt Nam.

Hai là, sáng tạo trong việc xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc

Quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh cho rằng lực lượng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc phải là đảng cộng sản. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người cho rằng: cách mệnh “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”8. Đảng cách mạng có vai trò quan trọng vì nhận thức đúng và đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi có ý nghĩa sống còn của phong trào cách mạng, của quần chúng nhân dân, trong đó quan trọng bậc nhất là nhu cầu được giác ngộ, được tổ chức và được lãnh đạo.

Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh thì sự lãnh đạo của của đảng cộng sản là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Cách mạng muốn thắng lợi, sự tồn tại của đảng cộng sản là tất yếu nhưng phải thỏa mãn những điều kiện như: (1) Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”; (2) Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc; (3) Đảng phải vững, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất; (4) Đảng viên phải có đủ đức và tài, phải “là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh, Đảng là đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác - Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên “thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, năng lực trí tuệ cao, giải quyết những vấn đề xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.

Khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng cộng sản lãnh đạo, đồng thời Người đã đề cập những yêu cầu tất yếu đối với đảng cầm quyền trong lãnh đạo cách mạng. Điều này thể hiện rõ tính biện chứng, cách mạng, khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây cũng là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, góp phần làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.

Ba là, sáng tạo trong xác định lực lượng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc

Hồ Chí Minh hiểu rõ những đặc điểm lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Người đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong việc xác định lực lượng cách mạng. Theo Người, nguyên tắc xác định lực lượng cách mạng là “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”9. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định: “… cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”10. Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh chủ trương phải tập hợp được các lực lượng cách mạng bao gồm: giai cấp vô sản, đại bộ phận dân cày, tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, phú nông, trung, tiểu địa chủ… chỉ trừ bọn “đã ra mặt phản cách mệnh”.

Xác định lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân, trong đó Hồ Chí Minh cho rằng “công nông là gốc cách mệnh”, “là chủ cách mệnh”. Người cũng lý giải thêm vì sao công nông là lực lượng nòng cốt của cách mạng? Câu trả lời: (1) là vì công nông bị áp bức nặng hơn; (2) là vì công nông đông nhất, cho nên sức mạnh hơn hết; (3) là vì công nông là người tay không rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc.

Mặc dù, đánh giá cao vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân, nhưng Hồ Chí Minh vẫn luôn khẳng định, công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Người chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị to lớn đối với cách mạng Việt Nam và thế giới, bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo đưa đến những thắng lợi vĩ đại trong lịch sử dân tộc.

Bốn là, sáng tạo trong nhận diện tính chủ động, khả năng giành thắng lợi của cách mạng ở thuộc địa

Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng thuộc địa cần phải thiết lập mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các phong trào cách mạng trên thế giới. Vì chính sách phản động của chủ nghĩa thực dân đã tạo ra khả năng đoàn kết các phong trào cách mạng trên thế giới vì những lợi ích chung: “Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho tổ quốc chúng ta”11. Và “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”12.

Trong mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng ở chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng đó không phải là mối quan hệ phụ thuộc nhau, càng không phải là quan hệ chính – phụ, mà là quan hệ vừa có tính độc lập vừa hỗ trợ, gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Tiếp thu quan niệm chung của các nhà kinh điển và của Quốc tế Cộng sản về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và chính quốc, Hồ Chí Minh thừa nhận có nhiều khả năng cách mạng có thể xảy ra và giành được thắng lợi ở thuộc địa trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong đó, theo quan điểm của các nhà kinh điển và Quốc tế cộng sản: (1) Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”13; (2) Quan điểm của V.I.Lênin trong Luận cương: “… điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau (…). Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản…”14; (3) Quan điểm của Quốc tế Cộng sản: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”15.

Hồ Chí Minh khẳng định trong bài viết Kẻ bại trận ở Đông Dương (8/4/1921): “... không còn xa lắm, (…) giai cấp vô sản chính quốc sẽ làm nhiệm vụ của mình: họ sẽ tống cổ tất cả bọn ăn bám ra khỏi cửa; sau khi đã giải phóng mình, họ sẽ giải phóng những người anh em ở Đông Dương”16. Hồ Chí Minh nhận định khả năng của cách mạng ở thuộc địa nổ ra sớm hơn ở chính quốc. Điều này có cơ sở khoa học. Cơ sở khoa học đó bắt nguồn từ chính thực tiễn ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Hồ Chí Minh thấy rõ: “… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa”17 và “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa”18. Theo Người, chính sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đã sản sinh ra những điều kiện cho phép tiêu diệt chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa. “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương”. Hồ Chí Minh cũng nhìn thấy “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”19.

Việc nhận thấy rõ sức mạnh và khả năng giành thắng lợi trước của cách mạng ở các thuộc địa thể hiện tài năng, tầm nhìn và sự nhạy bén chính trị của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đối với Hồ Chí Minh, sự sáng tạo lý luận là cần nhưng chưa đủ. Lý luận như mũi tên, thực tiễn như cái đích, tên không bắn, hoặc bắn không trúng đích thì cũng vô nghĩa. Chính vì lẽ đó, Người đã không ngừng nỗ lực vận dụng lý luận vào thực tiễn cách mạng Việt Nam nhằm biến khả năng thành hiện thực bằng những hành động cụ thể. Từ lý luận đến với thực tiễn, Hồ Chí Minh hình thành nguyên lý về  “tự giải phóng”. Người nói: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”20; “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”21.

2. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đối với sự nghiệp đổi mới đất nước  hiện nay

Nhu cầu giải phóng dân tộc, lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là nguyện vọng cháy bỏng, là khát khao lớn nhất của Hồ Chí Minh. Những lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc của Người phản ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc của Nhân dân và của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Giá trị của những sáng tạo về cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã được khẳng định thông qua thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới. Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã đưa dân tộc ta từng bước tiến kịp với sự phát triển chung của nhân loại đã khẳng định sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh không chỉ là người xây dựng cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc xuất phát từ nhu cầu bức thiết của thực tiễn, phải giải quyết được những mâu thuẫn của thực tiễn. Chính thực tiễn lãnh đạo đấu tranh giành độc lập và kháng chiến thắng lợi, đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng giải phóng dân tộc. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ chí Minh được hiện thực hóa trong cách mạng Việt Nam, đã đưa cách mạng Việt Nam trở thành lá cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đây cũng là lý do để tổ chức UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”22.

Ngày nay, nhân loại đã và đang bước vào kỷ nguyên mới nhưng những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc vẫn vẹn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh không chỉ là cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành, giữ độc lập dân tộc của Nhân dân Việt Nam mà còn đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là ngọn cờ tiếp tục cổ vũ cho các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho hòa bình và công lý.

Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mang tính thời đại thể hiện rõ ở chỗ, tư tưởng của Người đã tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống sự áp bức của chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã góp một phần tạo nên những biến chuyển lớn của thời đại, mở ra thời đại mới, thời đại của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Đặc biệt hơn, với lý luận cách mạng đầy sáng tạo, Hồ Chí Minh đã tổ chức, lãnh đạo và giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của Nhân dân Việt Nam. Đây là giá trị không thể phủ nhận của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Ở Hồ Chí Minh, không có một quan điểm lý luận nào nằm trên giấy mà bao giờ cũng được soi sáng, kiểm nghiệm bằng thực tiễn và chính thực tiễn lại làm phong phú, phát triển lý luận. Thực tiễn nói tới ở đây hết sức phong phú và đa dạng, Việt Nam và thế giới, dân tộc và thời đại, đấu tranh và xây dựng,... Đó là cả một logic của khoa học, nó đòi hỏi trí sáng tạo, bản lĩnh, tư duy và tầm nhìn của người lãnh đạo cần được vận dụng sáng tạo trong tình hình mới.

Đánh giá về những thành tựu, hạn chế của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới, Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, (…) nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình”23. Tuy nhiên, nhận định về những hạn chế của đất nước, Đảng cũng thừa nhận rằng, “mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 không hoàn thành; tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, (…) có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình”24. Một trong những nguyên nhân được kết luận tại Hội nghị: “nhận thức, lý luận, mô hình, mục tiêu, tiêu chí về công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn nhiều nội dung chưa rõ, chưa sát thực tiễn, còn chủ quan, duy ý chí”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định, mục tiêu hướng đến của cách mạng vào giữa thế kỷ XXI và trong những thập niên tới là: đến năm 2030, Việt Nam “là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao”; đến năm 2045, “Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao”25. Từ mục tiêu này, thiết nghĩ cần phải bám sát thực tiễn của đất nước, tình hình thế giới và khu vực. Đường lối, chủ trương của Đảng là đúng đắn khi đường lối đó phải đi vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn theo hướng phát triển làm cho đời sống của Nhân dân được nâng cao, đồng thời qua thực tiễn phong phú phải quay trở lại tổng kết, bổ sung, phát triển lý luận của Đảng ta ở một tầm cao mới. Nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, mỗi bộ, ngành, địa phương, đơn vị và mỗi người Việt Nam cần thấy rõ thuận lợi và khó khăn của đất nước, kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, cũng như cần nhận thức rõ yêu cầu chủ động, sáng tạo của cách mạng trong tình hình mới. Thực tiễn đổi mới đất nước cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc có giá trị tham chiếu, gợi mở nhiều nội dung để chúng ta suy nghĩ.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tư tưởng của Người vẫn tiếp tục rọi sáng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương thức giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp - con người; dân tộc - thời đại; lý luận - thực tiễn trên cơ sở nhận thức chính xác đặc điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thành công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây cũng là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

---------

Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị số 1 (37) - 2024

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.588.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.30.

3 Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.12-13.

4, 5, 8, 9, 10, 20  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.296, 304, 289, 288, 283, 128.

 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.

 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.15.

11, 12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.208, 273.

13 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.624.

14 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t.41, tr.199.

15 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2021, tr.51.

16, 17, 18, 19 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.30, 274, 243, 24.

21 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.522.

22 UNESCO: Nghị quyết 24C/18.65. Trích từ tập Biên bản của Đại hội đồng khóa họp 24 tại Paris, ngày 20/10 - 20/11/1987, UNESSCO xuất bản năm 1988, tr.144.

23, 24 Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu học tập các Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.65, 66-67.

25 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.36.