TS ĐỖ VĂN QUÂN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS HUỲNH ĐỨC HIỀN
Trường Chính trị Tôn Đức Thắng
(TTKHCT) - Bài viết hệ thống hóa, phân tích các kết quả và hạn chế của một số hướng tiếp cận và đo lường trong nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, từ quan điểm của Max Weber về phân tầng xã hội, cũng như các nỗ lực và giới hạn trong các nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam, tác giả đưa ra một số gợi mở đối với việc tiếp cận, đo lường và phân tích phân tầng xã hội từ góc độ tiếp cận mô hình tam giác đều.
Ảnh minh họa (Nguồn: nhabe.hochiminhcity.gov.vn)
1. Đặt vấn đề
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra mục tiêu “… phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, thu nhập cao và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa”1. Để góp phần đạt được mục tiêu này, Đảng ta yêu cầu cần phải “dự báo đúng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp”2, trong đó cần ưu tiên “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh (…) Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn (…) Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới (…) Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc”3, đồng thời “… giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân”4.
Điều đó cho thấy, Đảng ta đã quan tâm và đặt vấn đề cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội trong chiến lược phát triển của đất nước. Quá trình đổi mới và phát triển đất nước trong gần 40 năm qua, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, trong đó có vấn đề nhận thức, tư duy cũng như ban hành, tổ chức thực hiện các chính sách pháp luật liên quan đến thực tiễn phân tầng xã hội của đất nước. Phân tầng xã hội nước ta hiện nay đang có sự biến động mạnh mẽ, vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực đến quá trình phát triển của đất nước. Kết cấu giai tầng xã hội ngày càng đa cơ cấu - giai tầng xã hội; trong mỗi giai cấp, tầng lớp lại có sự đan xen đa dạng. Phân tầng xã hội thể hiện trên tất cả các phương diện của đời sống: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, giải trí, v.v.. Trong đó, phân tầng kinh tế là dễ nhận thấy nhất với khoảng cách đáng kể trong phân hóa giàu - nghèo5.
Phân tầng xã hội một mặt có vai trò như một xung lực mạnh mẽ trong thúc đẩy các cá nhân, nhóm và các giai tầng xã hội không ngừng nỗ lực vươn lên, mặt khác cũng đang làm phát sinh và gia tăng không ít vấn đề xã hội cần kịp thời tập trung giải quyết. Do đó, chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về phân tầng xã hội ở Việt Nam, trên cơ sở đó cung cấp các luận cứ khoa học cho hoạch định và thực thi có hiệu quả các chính sách trong thúc đẩy phân tầng xã hội, vừa kiểm soát phân tầng xã hội kịp thời, góp phần đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam - những nỗ lực tiếp cận, nghiên cứu và các giới hạn
Các nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam có xu hướng khẳng định mối quan hệ phức tạp, đa chiều cạnh giữa phân tầng xã hội với tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong đó, các nghiên cứu đã tập trung làm rõ tác động tích cực và tiêu cực của phân tầng xã hội trong quá trình Việt Nam thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt tích cực của phân tầng xã hội là “khơi dậy, thúc đẩy tính tích cực, năng động, chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân, nhóm xã hội trong việc phát hiện khai thác các cơ hội để làm giàu chính đáng, vươn lên thành đạt trong các lĩnh vực của đời sống, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường; có tác động tích cực, góp phần kích thích mạnh mẽ sự chuyển đổi mô hình và cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển hợp lý, bền vững, làm tăng tính cơ động xã hội và sự phân công lại lao động xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển mới của đất nước. Thông qua phân tầng xã hội sẽ sàng lọc, tuyển chọn, hình thành được những tầng lớp mới, những nhóm ưu tú, vượt trội, có những phẩm chất và năng lực cần thiết, thích ứng được với sự biến đổi của xã hội”6. Đồng thời, phân tầng xã hội gia tăng làm cho khác biệt giàu - nghèo ngày càng lớn, những cơ hội phát triển cho người giàu sẽ nhiều hơn. Những khác biệt này diễn ra ban đầu trong lĩnh vực kinh tế, sau đó sẽ lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nhà ở và các dịch vụ khác. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dễ xuất hiện những nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như những hộ nghèo, phụ nữ, trẻ em, người già, dân nhập cư tự do và đặc biệt khi nhóm người nghèo lại là đối tượng quan tâm của các chính sách xã hội, thì vấn đề càng phức tạp hơn7. Nhưng điểm cốt yếu nhất của nghiên cứu vấn đề này là cần phải tiếp cận và đo lường các chỉ báo như thế nào để có thể hoạch định và tổ chức các chính sách đáp ứng được “mục tiêu kép” vừa thúc đẩy và vừa có khả năng kiểm soát phân tầng xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một số nghiên cứu đã tập trung vào tiêu chí nghề nghiệp, như là tiêu chí cốt lõi và có thể thay thế cho các tiêu chí khác để nghiên cứu phân tầng xã hội. Điển hình là nghiên cứu của Đỗ Thiên Kính, Bùi Thế Cường. Các tác giả này lập luận rằng: “… đa số các nhà xã hội học quốc tế đã dựa vào nghề nghiệp để đo lường một giai cấp xã hội, nghiên cứu về phân tầng xã hội. Sở dĩ như vậy, bởi vì nghề nghiệp là điểm xuất phát hữu ích nhất để người ta có được những nguồn lợi tài chính, địa vị xã hội và có ý nghĩa lâu dài đối với thế hệ con cái. Hơn nữa, nghề nghiệp là biểu hiện và minh họa cụ thể cho lý thuyết chức năng trong việc giải thích vì sao có sự phân tầng xã hội. Tức là nó trả lời câu hỏi tại sao người ta lại có được những nguồn lợi khác nhau trong hệ thống phân tầng”8. Tuy nhiên, cách tiếp cận này đã vô tình dẫn đến việc nhìn nhận một cách thái quá về yếu tố nghề nghiệp. Nghề nghiệp trở thành thành tố cốt yếu, thậm chí là duy nhất để xác lập hiện trạng phân tầng xã hội - điều mà lý luận và thực tiễn đã chứng minh không hoàn toàn đúng.
Trong các nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay, hạn chế lớn nhất là “phân tách riêng biệt từng chiều cạnh (về tài sản, quyền lực, uy tín) để nghiên cứu phân tầng xã hội. Kết quả là đã lựa chọn chiều cạnh về tài sản, mức sống thì dễ đo lường hơn cả. Các chiều cạnh còn lại thì rất khó đo lường và không biết đo lường như thế nào. Từ chiều cạnh mức sống, nhiều tác giả Việt Nam đã “bóc tách” riêng tầng lớp trung lưu nằm ở khoảng giữa trong dãy “phân tầng mức sống”, cho nên dẫn đến xếp đặt cả người nông dân làm ăn giỏi vào tầng lớp trung lưu”9. Nhìn chung, các nghiên cứu tiêu biểu về phân tầng xã hội ở Việt Nam đều dựa vào tiêu chí kinh tế (mức sống hay thu nhập, chi tiêu, nhà ở, tiết kiệm, tích lũy tài sản, v.v.) mà chưa đề cập đến các tiêu chí địa vị xã hội (uy tín) và địa vị chính trị (quyền lực). Do đó, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu về phân tầng xã hội này ở Việt Nam trong thời gian qua mới chỉ là nghiên cứu về sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách giữa các nhóm theo chỉ báo kinh tế, thu nhập, mức sống. Vì vậy, “việc khai thác triệt để nguồn dữ liệu thống kê kinh tế - xã hội, các cuộc tổng điều tra dân số, điều tra mức sống dân cư, kết hợp với các nghiên cứu chọn mẫu, định tính và phân tích xã hội học sẽ là hướng có triển vọng để hiểu và nắm bắt được bản chất của sự phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay. Đó không chỉ là hướng nghiên cứu thích hợp về mặt xã hội mà còn là hướng nghiên cứu kinh tế - chính trị về cấu trúc xã hội và về mô hình xã hội tổng thể của đất nước trong giai đoạn mới”10.
Các nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam thường tiếp cận trên cơ sở của 3 lý thuyết: chức năng, xung đột xã hội và tiếp cận tổng - tích hợp lý thuyết. Với cách tiếp cận chức năng, các nghiên cứu đo lường và phân tích phân tầng xã hội ở chiều cạnh tích cực, tất yếu, khách quan; trong khi đó theo hướng tiếp cận xung đột xã hội, vấn đề phân tầng xã hội lại chủ yếu được quan tâm ở khía cạnh tác động tiêu cực, cần phải xóa bỏ. Ở cách tiếp thức ba, tác giả Nguyễn Đình Tấn đã cố gắng tổng - tích hợp quan điểm của C.Mác với hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Max Weber và các quan niệm hiện đại về phân tầng xã hội. Tác giả này cho rằng: “… cần phải tiến hành bằng cách tổng - tích hợp những lý giải của các lý thuyết chức năng và xung đột xã hội. Điểm mới, điểm bứt phá từ sự tổng - tích hợp các lý thuyết về phân tầng xã hội chính là ở chỗ, chúng ta không đơn giản hoặc là quy phân tầng xã hội nói chung về “cái tốt” cái “tích cực” như lập luận của những người theo thuyết chức năng hoặc là quy phân tầng xã hội nói chung về cái “xấu”, cái “tiêu cực” như lập luận của những người theo thuyết xung đột mà đã thấy được, “khám phá” ra được rằng phân tầng xã hội là một “thực thể” có cấu trúc “2 mặt” song hành tồn tại: “phân tầng xã hội hợp thức” và “phân tầng xã hội không hợp thức””11. Phân tầng hợp thức không chỉ hiểu theo nghĩa thông thường mà hàm chứa cả sự phù hợp với đạo lý, pháp luật, các giá trị, chuẩn mực và các quy tắc của đời sống văn hóa, xã hội. Nó không chỉ phù hợp với những quy tắc, chuẩn mực của hiện tại, của cái đang diễn ra mà còn phù hợp với xu hướng vận động đi lên mang tính quy luật của xã hội12. Trong khi đó, “phân tầng xã hội không hợp thức có nghĩa là phân tầng không dựa trên những sự khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự khác nhau về tài, đức, sự đóng góp cổng hiến một cách thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội. Phân tầng không hợp thức dựa vào những hành vi trái pháp luật, tham ô, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp, buôn bán phi pháp để trở lên giàu có, xu nịnh, chạy chọt để có địa vị cao trong xã hội, hoặc ỷ lại để rơi vào sự nghèo khổ, hèn kém. Phân tầng xã hội không hợp thức vừa là biểu hiện của sự bất công bằng xã hội vừa là biểu hiện của bất bình đẳng xã hội, do đó nó là tiêu cực làm kìm hãm sự phát triển của xã hội”13.
Cũng giống như các nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam nói chung, xu hướng nghiên cứu “phân tầng xã hội hợp thức và bất hợp thức” vẫn dựa vào tiêu chí kinh tế là chủ yếu. Thực tiễn đã cho thấy sự khác biệt giữa phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội bất hợp thức là rất mong manh, nếu như không thực sự đồng thời dựa trên các chỉ số định lượng ở cả ba chiều cạnh mang tính ổn định, khách quan. Một trong những điểm hạn chế của cách tiếp cận phân tầng này là rất khó đo lường, lượng hóa, phân tích, đánh giá các biểu hiện “phân tầng xã hội hợp thức và không hợp thức” trong thực tế. Nhiều người hôm qua vừa được ca tụng, vinh danh (phân tầng xã hội hợp thức), nhưng hôm sau có thể chịu sự trừng phạt của pháp luật, nghĩa là thuộc nhóm phân tầng xã hội bất hợp thức.
3. Từ quan điểm phân tầng xã hội của Max Weber đến tiếp cận “mô hình tam giác đều” trong nghiên cứu về phân tầng xã hội
Với phương pháp tiếp cận đa dạng và liên ngành, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về “phân tầng xã hội”, trong đó nổi bật phải kể đến lý thuyết phân tầng xã hội của Max Weber, người bắt đầu hoạt động học thuật từ cuối thập niên 1880. Lý thuyết phân tầng xã hội và giai cấp của Max Weber được trình bày xuyên suốt trong tác phẩm Kinh tế và xã hội xuất bản năm 1922, thường được gọi là “lý thuyết ba cấu thành của phân tầng”14. Lý thuyết này cho rằng phân tầng xã hội chịu tác động của hai nhóm yếu tố kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất, thị trường…) và phi kinh tế (vị thế xã hội, khả năng, cơ may, quyền lực…)15. Quan sát thời đại mình sống, Max Weber cho rằng trong chủ nghĩa tư bản có bốn giai cấp xã hội dựa theo sự khác biệt về sở hữu tài sản và tư liệu sản xuất, những người có và những người không có sở hữu tài sản. Weber quan niệm về mặt kinh tế, có hai hình thức phân tầng xã hội: thứ nhất, sự phân tầng xã hội thành các giai cấp khác nhau về sở hữu tài sản (giai cấp tư sản và giai cấp vô sản); thứ hai, sự phân tầng xã hội thành các giai cấp khác nhau về thu nhập (giai cấp thượng lưu - giàu có và giai cấp hạ lưu - nghèo khó). Theo ông, các yếu tố về kinh tế không còn giữ vai trò duy nhất đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội nữa, mà sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội còn chịu sự tác động của yếu tố phi kinh tế. Ngoài những người thuộc hai loại phân tầng xã hội trên, Max Weber còn cho rằng có những người mà cuộc sống của họ, nhất là về lối sống, không phụ thuộc hoàn toàn vào tình huống thị trường mà còn phụ thuộc vào uy tín, danh vọng và sự đánh giá của xã hội dành cho họ. Ông gọi họ là những người thuộc “nhóm vị thế” (status group). Theo ông, cả hai loại người có tài sản và không có tài sản đều có thể ở cùng một nhóm vị thế. Đấy là phần tầng xã hội - vị thế.
Thực tế cho thấy, xã hội càng hiện đại và phát triển, các loại nguồn lực và tài sản tạo nên cơ sở dùng để phân chia các tầng lớp xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp. Sở dĩ có tình trạng này là do các xã hội công nghiệp càng phát triển, nhiều nguồn lực có giá trị mới xuất hiện. Điều này dẫn đến việc chậm tiếp cận và đo lường trong nghiên cứu về phân tầng xã hội so với nhu cầu mà thực tế đặt ra. Nói cách khác, làm thế nào để đo lường đồng thời được cả ba chiều cạnh căn bản về địa vị kinh tế (tài sản, của cải), địa vị chính trị (quyền lực) và địa vị xã hội (uy tín) theo lý thuyết phân tầng xã hội của Max Weber trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay? Để nghiên cứu phân tầng xã hội, điều kiện tiên quyết là phải tiến hành đo lường đồng thời cả ba chiều cạnh, chứ không đo lường từng chiều cạnh, hoặc đo lường lần lượt từ chiều cạnh này sang chiều cạnh khác16. Từ những gợi mở này và thông qua quan sát thực tế, chúng tôi liên hệ đến “mô hình tam giác đều” liệu có thể giải quyết được gì trong tiếp cận, đo lường, phân tích về phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Hình tam giác là một trong những khái niệm cơ bản của hình học phẳng, theo đó hình tam giác được định nghĩa là hình hai chiều được tạo bởi ba đoạn thẳng nối ba điểm không thẳng hàng, gọi là đỉnh của tam giác. Hình tam giác là một đa giác đơn giản nhất gồm ba đỉnh và ba cạnh. Ba điểm này không nằm trên cùng một đường thẳng và ba đoạn thẳng nối ba điểm đó tạo thành một hình kín. Tổng ba góc trong một tam giác luôn bằng 180o. Hình tam giác đều là loại hình tam giác với đặc trưng là ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng nhau, mỗi góc là 60o (xem mô hình dưới).
Cốt lõi của cách tiếp cận “mô hình tam giác đều” trong nghiên cứu phân tầng xã hội chính là dựa vào đặc điểm của ba cạnh và ba góc của tam giác đều để tiếp cận và đo lường phân tầng xã hội nhằm bảo đảm tính đồng thời và hài hòa trong mối quan hệ biện chứng với nhau; trên cơ sở đo lường các chỉ báo nhằm xác lập mức độ hợp thức của phân tầng xã hội. Cụ thể là: tiếp cận, đo lường và phân tích phân tầng xã hội về kinh tế (các chỉ báo liên quan đến mức thu nhập, chi tiêu, tiết kiệm, tài sản...) phải đồng thời hài hòa và đặt trong mối quan hệ với chiều cạnh phân tầng xã hội về quyền lực chính trị (chức vụ, thẩm quyền, ứng cử, bầu cử...), cũng như chiều cạnh phân tầng xã hội về văn hóa, học vấn và uy tín xã hội (số năm đi học, bằng cấp chuyên môn, sự thừa nhận và ảnh hưởng trong cộng đồng...); các chiều cạnh này phải tiệm cận tương đối bằng nhau. Nếu không đảm bảo các điều kiện này thì mức độ bất hợp thức của phân tầng xã hội sẽ gia tăng, bởi nguyên tắc cơ bản của cách tiếp cận phân tầng xã hội theo “mô hình tam giác đều” là quyền, lợi ích, trách nhiệm và nghĩa vụ của các cá nhân, nhóm, giai tầng xã hội luôn phải tương thích và gắn chặt với nhau. Đồng thời, việc nghiên cứu về phân tầng xã hội chỉ thực sự có ý nghĩa khoa học và thực tiễn khi đồng thời giải quyết được cả ba chiều cạnh mang tính bản chất vốn có, không thể phân tách của hiện tượng phân tầng xã hội. Không những vậy, “việc nghiên cứu, phân tích, khảo sát thực trạng cũng như xu hướng biến đổi của phân tầng xã hội ở Việt Nam cần có một tiếp cận hệ thống phức hợp đa chiều cạnh, đa cấp độ, đa quá trình; tiếp nhận các tiêu chí đánh giá của các quan điểm lý thuyết khác nhau”17.
4. Nghiên cứu thúc đẩy và kiểm soát phân tầng xã hội ở Việt Nam: Một số gợi mở từ góc độ tiếp cận “mô hình tam giác đều”
Cách tiếp cận “mô hình tam giác đều” trong nghiên cứu phân tầng xã hội đưa đến gợi mở: Để vừa thúc đẩy, vừa kiểm soát phân tầng xã hội có hiệu quả ở Việt Nam hiện nay cần phải đẩy mạnh tối đa việc lồng ghép các mục tiêu kiểm soát phân tầng xã hội vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn của đất nước; đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong phát huy vai trò của từng thành phần kinh tế; đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam đã chỉ ra, một trong những yếu tố cốt lõi nhất cần phải quan tâm giải quyết kịp thời, hài hòa và hiệu quả, chính là phân định và xử lý tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát tư liệu sản xuất (nhất là liên quan đến đất đai, bất động sản). Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Việt Nam thực hiện nhiều hình thức sở hữu, trong đó công hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò chủ yếu. Nhưng thực tế cho thấy “quyền sở hữu” những tư liệu sản xuất thuộc nhà nước (công hữu) có xu hướng không nổi trội bằng “quyền kiểm soát” tư liệu sản xuất thuộc nhà nước. Do vậy, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực, kiểm soát “quyền kiểm soát” tài sản công và kiểm soát tham nhũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để có thể đồng thời vừa thúc đẩy vừa kiểm soát thành công phân tầng xã hội, góp phần bảo đảm mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, tiếp cận “mô hình tam giác đều” trong nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thực sự cải cách (có thể coi như một cuộc cách mạng) mạnh mẽ về tiền lương (cho người lao động nói chung và cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng); thực hiện chế độ trả lương cho các bộ công chức, viên chức theo vị trí việc làm là tất yếu khách quan và cần phải tập trung các nguồn lực để thúc đẩy. Một trong những bất cập hiện nay trong chính sách tiền lương, phúc lợi xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chính là chưa tính đầy đủ ở phương diện trách nhiệm chính trị - xã hội, cũng như những đóng góp và sự kỳ vọng của xã hội đối với nhóm xã hội này trên phương diện quyền lực chính trị và văn hóa, uy tín xã hội. Do đó, để thúc đẩy xu hướng phân tầng xã hội hợp thức cần phải xác lập đồng thời trên cả ba chiều cạnh: kinh tế, chính trị và văn hóa, uy tín xã hội. Để tham gia vào đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị của đất nước, phải đầu tư học tập, rèn luyện, cống hiến và chịu trách nhiệm lớn hơn nhiều so với lực lượng lao động trong khu vực sản xuất vật chất, dịch vụ thông thường. Vì vậy, mức lương khởi điểm và cơ sở để trả lương cho người lao động ở các khu vực này cần phải dựa trên nền tảng tiếp cận phân tầng xã hội đồng thời ba chiều cạnh của tam giác đều. Tức các yếu tố nền tảng để xác định mức lương và phúc lợi xã hội luôn phải tính đến và tương xứng với các chiều cạnh phân tầng xã hội của mô hình “tam giác đều”. Nghĩa là, mức lương khởi điểm cũng như cơ sở để tăng mức lương của cán bộ, công chức, viên chức có trình độ đại học trở lên sẽ phải khác với mức lương khởi điểm của người lao động làm trong doanh nghiệp có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học. Bởi vì, để có thể làm việc trong khu vực công, mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải có nhiều cam kết, sự nỗ lực và chi phí đầu tư cho giáo dục nhiều hơn so với người lao động ở các khu vực khác. Đồng thời, hậu quả những sai sót trong quá trình làm việc mà người lao động ở khu vực khác gây ra có thể không lớn bằng và dễ khắc phục hơn so với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.
Ngoài ra, tiếp cận mô hình này trong nghiên cứu phân tầng xã hội cho thấy các vấn đề: cải cách tiền lương, tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực, v.v. trong hệ thống chính trị luôn phải gắn liền và dựa trên nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững; nêu cao khát vọng cống hiến, phục vụ, đề cao giá trị xã hội, liêm chính cho cán bộ, công chức, viên chức và hướng đến xây dựng môi trường làm việc thân thiện, hạnh phúc, thực sự trở thành một hệ sinh thái tổng thể đồng bộ và thống nhất. Chính mức lương khá thấp đã góp phần dẫn đến xu hướng phân hóa về phẩm chất, thái độ, năng lực và kết quả thực hiện các nhiệm vụ được giao của cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Điều này đang là cản trở rất lớn đối với mục tiêu tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy, cải cách tiền lương, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, liêm chính, phục vụ, hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
Trong khi đó, một bộ phận doanh nhân có nền tảng và điều kiện vững chắc về kinh tế, tài chính, mức hưởng thụ, nhưng chưa thể hiện nhiều trách nhiệm chính trị, khát vọng cống hiến cho đất nước, ứng xử văn hóa và uy tín xã hội chưa tương xứng với kỳ vọng của xã hội. Do đó, tình trạng lệch chuẩn xã hội, vi phạm pháp luật, trở thành tội phạm của nhóm xã hội này đang có dấu hiệu tăng lên. Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức, nhà giáo, văn nghệ sĩ có nền tảng học vấn cao, hiểu biết rộng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội, nhưng không ít trong số họ lại có biểu hiện bàng quan, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với chính trị, xã hội và còn gặp không ít khó khăn trong cuộc sống.
Từ góc độ tiếp cận “mô hình tam giác đều” trong nghiên cứu phân tầng xã hội có thể đưa ra những gợi mở để tăng cường những động lực tích cực, đồng thời kiểm soát các tác động tiêu cực của phân tầng xã hội ở Việt Nam trong tiến trình phát triển đất nước. Trong đó, rất cần phải thực hiện có hiệu quả các giải pháp sau: (1) phân bổ và sử dụng các nguồn lực hợp lý, hiệu quả trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) đề cao trách nhiệm gắn liền với quyền lợi, nghĩa vụ công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (3) thực sự thúc đẩy vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, giáo dục - đào tạo trong sự vận động, biến đổi và vươn lên của mọi giai tầng xã hội; (4) từng bước hướng đến và có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa quản lý nhà nước và quản lý phát triển xã hội; (5) giáo dục - đào tạo phải thực sự là nền tảng, quốc sách hàng đầu.
Để phát triển các giai cấp, tầng lớp xã hội như tinh thần của Đại hội lần thứ XIII của Đảng, từ phương diện tiếp cận “mô hình tam giác đều”, các ngành, các cấp, các địa phương cần tập trung chú trọng phát triển tầng lớp doanh nhân, tầng lớp trung lưu lớn mạnh có trách nhiệm xã hội, đồng hành với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; gắn với phát triển giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức với tăng trưởng kinh tế, đảm bảo điều kiện vật chất, tinh thần tương xứng. Trong công tác đánh giá, cần quan tâm và nhấn mạnh đến một số chỉ tiêu như: bản lĩnh chính trị, trách nhiệm chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, chuẩn mực văn hóa, đạo đức, trình độ quản trị kinh doanh trong giai đoạn hiện nay.
5. Kết luận
Từ cách tiếp cận “mô hình tam giác đều” trong nghiên cứu phân tầng xã hội, các nhà nghiên cứu cho rằng: để tạo ra động lực thúc đẩy phân tầng xã hội cũng như kiểm soát có hiệu quả vấn đề phân tầng xã hội, góp phần hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đem lại sự hài lòng, hạnh phúc của các giai tầng xã hội đến năm 2045, Việt Nam cần phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc nghiên cứu, ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến tầng lớp trung lưu trong tổng thể các chính sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với bối cảnh mới. Trong đó, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vừa khuyến khích, tạo điều kiện phát triển, vừa tăng cường quản lý, kiểm soát, định hướng phân tầng xã hội. Chính quyền các cấp cần đảm bảo tính đồng bộ trong việc tạo lập môi trường và giải quyết một cách đồng bộ các vấn đề: hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách vĩ mô, các yếu tố tác động của thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự phân công lao động xã hội về mặt nghề nghiệp và vị thế xã hội; đảm bảo các đặc trưng vùng trong chính sách phát triển: điều kiện kinh tế, kết cấu hạ tầng và văn hóa của từng tỉnh, thành phố; quan tâm đến các yếu tố thuộc về cá nhân trong quản lý phát triển xã hội: sự khác nhau về năng lực (thể chất, trí tuệ), điều kiện, cơ may; sự cống hiến, đóng góp thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội; tạo cơ hội, nâng cao năng lực của các hộ gia đình và cộng đồng trong tiếp cận các nguồn lực cho phát triển; thực hiện có hiệu quả đồng thời hai mục tiêu: giảm nghèo bền vững và thúc đẩy khuyến khích làm giàu hợp pháp.
---------
Bài viết được đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học chính trị số 3 (39) - 2024
1, 2, 3, 4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.14, 148, 166 - 167, 148.
5, 15 Hồ Ngọc Anh, Trần Duy Mỹ: Kiểm soát phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay - Tiếp cận từ góc độ phát triển hệ thống giáo dục, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/827379/kiem-soat-phan-tang-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay---tiep-can-tu-goc-do-phat-trien-he-thong-giao-duc.aspx, truy cập ngày 10/5/2023.
6, 7, 11, 12, 13 Nguyễn Đình Tấn: Phân tầng xã hội hợp thức từ sự tổng tích hợp các lý thuyết về phân tầng xã hội của các nhà xã hội học Phương Tây và những hàm ý về công bằng xã hội, https://vsa.net.vn/phan-tang-xa-hoi-hop-thuc-tu-su-tong-tich-hop-cac-ly-thuyet-ve-phan-tang-xa-hoi-cua-cac-nha-xa-hoi-hoc-phuong-tay-va-nhung-ham-y-ve-cong-bang-xa-hoi/#google_vignette, truy cập ngày 10/12/2016.
8, 9, 16 Đỗ Thiên Kính: Bàn về cách tiếp cận và phương pháp đo lường và đo lường tầng lớp trung lưu ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, số 1, 2017, tr.87, 86, 86.
10 Trịnh Duy Luân: Phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay: Phương pháp nghiên cứu và tiếp cận, Tạp chí Hoạt động Khoa học công nghệ, 2002.
14 Bùi Thế Cường: Nghiên cứu phân tầng xã hội: Một số lý thuyết và phân loại thực nghiệm quốc tế, Tạp chí Khoa học xã hội, số 7, 2021, tr.5.
17 Tô Duy Hợp, Trương Thị Thu Thủy: Một số quan niệm và hướng tiếp cận nghiên cứu giai tầng trung lưu ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Xã hội học, số 1, 2016, tr.27.