TS PHẠM VĂN GIANG
Học viện Chính trị khu vực III

(TTKHCT) - Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, có nội dung rộng lớn, phong phú, phức tạp. Trong suốt quá trình ra đời và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, phác thảo ra mô hình và định hướng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp điều kiện cụ thể Việt Nam. Vấn đề này một lần nữa được làm sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

1. Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trước đổi mới, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Từ đổi mới đến nay, trên cơ sở kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã phác thảo mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước Việt Nam. Về vấn đề này, trong quyển sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết: “Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?”1.

Mở đầu tác phẩm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”2.

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ, tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, nhất là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thực tế những năm qua cho thấy “kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc”3.

Chính vì vậy, chúng ta không thể lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, vì “chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”4.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.5

Đây là mô hình chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam hướng đến xây dựng:

Trước hết, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là đặc trưng tổng quát và là hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta xây dựng chế độ xã hội vì lợi ích của nhân dân nói chung, chứ không phải vì lợi ích của thiểu số. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được đảm bảo ở mức cao, ấm no, hạnh phúc. Dân giàu là tiền đề, điều kiện để xây dựng đất nước vững mạnh, hùng cường, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ hai, do nhân dân làm chủ. Xác định quyền làm chủ của nhân dân là đặc trưng nổi bật, thể hiện rõ mục tiêu, bản chất chính trị ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Mọi công dân được làm chủ rộng rãi về mọi mặt, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Thứ ba, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, xây dựng và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, với một nền kinh tế phát triển cao, thì thiết lập quan hệ sản xuất tiến bộ dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, phù hợp với bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá Việt Nam hướng đến xây dựng là kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; đồng thời, mở rộng giao lưu, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại; xây dựng nền văn hóa hiện đại, hội nhập, nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc Việt Nam.

Thứ năm, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người thoát khỏi chế độ áp bức, bóc lột. Con người là trung tâm, chủ thể của sự phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người; bảo đảm có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện về tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, yêu quê hương, đất nước, có tinh thần quốc tế trong sáng.

Thứ sáu, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là bình đẳng giữa các dân tộc, không phân biệt dân tộc đa số với dân tộc thiểu số. Không chỉ các dân tộc trong nước, mà bao gồm cả kiều bào đang sinh sống, lao động, học tập ở nước ngoài bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

Thứ bảy, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Mọi công dân phải tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Mọi quyền lực của nhà nước đều được luật hóa, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Thứ tám, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Đường lối đối ngoại của chủ nghĩa xã hội Việt Nam được thực hiện trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với tất cả các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau, các tổ chức quốc tế, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh.

2. Định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào là một vấn đề không đơn giản. Trước đổi mới, vì nhiều nguyên nhân, chúng ta đã áp dụng máy móc, giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết. Hệ quả là không phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta, khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng, buộc chúng ta phải đổi mới nhận thức về con đường và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tổng kết thực tiễn cách mạng, nhất là thực tiễn của công cuộc đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”. Vì vậy, “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”7.

Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ quá độ hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải thực hiện đồng thời các phương hướng, nhiệm vụ:

Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức8. Đây là nhiệm vụ cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trước hết phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, trong đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là nội dung cốt lõi để thực hiện mục tiêu đó, nhất là trong điều kiện của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vai trò của kinh tế tri thức ngày càng quan trọng. Để thực hiện mục tiêu này, phải phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa9. Trước đổi mới, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo mô hình Xô viết, chúng ta coi kinh tế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Từ đổi mới đến nay, cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng đúng, đầy đủ, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, thì kinh tế thị trường cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”10.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn chỉ rõ nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”11.

Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội12. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đi lên xây dựng chế độ mới. Xóa bỏ những tàn dư, yếu tố văn hóa lạc hậu cản trở sự phát triển của xã hội; giữ gìn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”13.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Vì vậy, phát triển kinh tế phải gắn với nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Theo đó, “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”14.

Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội15. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là điều kiện góp phần ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất nước trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế16. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, vì lợi ích của mỗi quốc gia dân tộc và lợi ích của toàn nhân loại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”17.

Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại18. Dân chủ hoá đời sống xã hội đang là xu thế chung của phát triển loài người. Để thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo ra sự đồng thuận xã hội, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”19

Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân20. Trước đổi mới, chúng ta coi Nhà nước pháp quyền là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ đổi mới đến nay, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ quá độ. Theo đó, “chúng ta nhận thức rằng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với Nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”21. Vì vậy, “chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”22.

Tám là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện23. Yếu tố quyết định nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải xây dựng Đảng xứng đáng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý phát triển đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa… Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”24

Những định hướng trên đây là sự chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt trong nhận thức và hành động để từng bước hiện thực hóa ở Việt Nam.

---------

Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị số 2 (32) - 2023

1, 2, 3, 4, 5 & 8 & 9 &12 &15 & 16, 6, 7 & 20 & 23, 10, 11, 13 & 14, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24 Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.17-18, 22, 19, 18, 24, 23-24, 25, 25-26, 26, 27, 37, 24-25, 28, 29, 28-29, 29-30.