TS VÕ CÔNG KHÔI
Học viện Chính trị khu vực III

 

(TTKHCT) - Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động vẫn không ngừng chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm chuyển hóa về tư tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Một trong những nội dung thường xuyên bị các thế lực xuyên tạc, phủ nhận là các giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, việc nhận diện, đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là yêu cầu cấp thiết, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân đã được thực hiện nhất quán và đồng bộ từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (01/1994). Thực tiễn đã chứng minh quá trình này là phù hợp với xu thế khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Tuy vậy, đi ngược với sự tin tưởng của toàn xã hội và nỗ lực thực hiện của hệ thống chính trị, nhiều luận điểm trong và ngoài nước ra sức phủ nhận, xuyên tạc tiến trình này. Do vậy, việc nhận diện rõ các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch về nhà nước pháp quyền XHCN, từ đó xây dựng các luận cứ đấu tranh phản bác có tính khoa học và thuyết phục, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay là đặc biệt quan trọng.

1. Luận điệu Nhà nước pháp quyền là của xã hội tư sản và chỉ phù hợp với xã hội tư bản chủ nghĩa, các nước XHCN không thể xây dựng nhà nước pháp quyền và vì thế, nhà nước pháp quyền XHCN chỉ là sự kết hợp khiên cưỡng giữa nước với lửa

Trên các diễn đàn khác nhau, các thế lực phi mác-xít lập luận rằng, nền tảng lịch sử, văn hóa và thể chế chính trị phương Tây đã sản sinh ra tư tưởng, lý thuyết pháp quyền. Các mô hình nhà nước pháp quyền đầu tiên xuất hiện ở phương Tây thời cận đại. Họ cho rằng, hạt nhân cốt lõi của lý thuyết pháp quyền là sự phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Giữa các quyền lực này có sự kiểm soát, cân bằng lẫn nhau. Trong khi đó, nhà nước XHCN là nhà nước “toàn trị” dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của một đảng duy nhất cầm quyền và vì thế, hoàn toàn trái với nguyên tắc pháp quyền và không phù hợp với chuẩn mực quốc tế1.

Tiến trình lịch sử cho thấy, các mô hình tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên lý thuyết pháp quyền đầu tiên xuất hiện gắn liền với một số nhà nước tư sản phương Tây thời cận đại nhưng cội nguồn tư tưởng của nó đã xuất hiện từ thời cổ đại ở cả phương Tây lẫn phương Đông. Đó là tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật, coi pháp luật là tượng trưng và là phương tiện hữu hiệu bảo vệ tự do, bình đẳng của con người (Solon, Pythagoras, Heraclitus, Democritus, Socrates, Aristotle, Hàn Phi…). Qua thời gian, tư tưởng pháp quyền không ngừng được hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ cách mạng tư sản nhằm phục vụ cho việc đấu tranh chống lại thuyết thần học của xã hội phong kiến - công cụ thống trị tư tưởng của giai cấp phong kiến. Thực tiễn lịch sử cho thấy: lý thuyết pháp quyền là giá trị kết tinh của văn minh nhân loại về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Theo đó, nhà nước pháp quyền không phải “con đẻ” của chủ nghĩa tư bản, không tồn tại duy nhất ở xã hội tư bản chủ nghĩa; trái lại, nhà nước tư sản chỉ là chủ thể bước đầu vận dụng lý thuyết pháp quyền vào thực tiễn tổ chức và thực thi quyền lực của mình. Và vì là thành tựu văn minh của nhân loại, các quốc gia khác có thể tiếp thu và vận dụng các hạt nhân hợp lý, phổ quát của lý thuyết này vào bối cảnh, điều kiện của quốc gia, dân tộc mình. Cho nên, lý thuyết pháp quyền và nhà nước pháp quyền không phải là “độc quyền” duy nhất của xã hội tư bản, và vì thế không thể khẳng định rằng nhà nước pháp quyền không thể tồn tại và phát triển trong xã hội XHCN.

Thực chất của quan niệm, luận điểm này là sự suy diễn tư biện và đố kỵ của những người coi chủ nghĩa xã hội là kẻ thù không đội trời chung. Bởi lẽ, với bản chất và đặc trưng của mình, xã hội XHCN có tính chất và trình độ phát triển cao hơn xã hội tư bản chủ nghĩa. Pháp luật XHCN là pháp luật của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nhà nước XHCN là hình thức tổ chức nhà nước được thiết lập trên cơ sở chính trị - pháp lý mang tính dân chủ và hợp pháp. Đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền XHCN. Nói cách khác, “nhà nước XHCN đích thực là nhà nước pháp quyền, đó là nhà nước pháp quyền đầy đủ, trọn vẹn và triệt để nhất, hay nhà nước XHCN chính là nhà nước pháp quyền XHCN”2.

Một điểm lưu ý rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại mà chỉ là một mô hình hay phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước trên cơ sở đề cao vai trò của pháp luật và các quyền, tự do của con người. Vì thế, chủ nghĩa tư bản có nhà nước pháp quyền tư sản thì chủ nghĩa xã hội sẽ có nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này cũng tương tự như lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường. Việt Nam không thể thành công trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội nếu không xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Tính tất yếu của quyết sách quan trọng này bắt nguồn từ yêu cầu khách quan về tính tương thích giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (cơ sở hạ tầng) với nhà nước pháp quyền XHCN (kiến trúc thượng tầng)3.

2. Luận điệu Dân chủ thật sự chỉ có trong một xã hội đa đảng, chế độ một đảng của Việt Nam không thể phát huy được dân chủ mà chỉ mang tính độc tài, áp đặt

Thời gian qua, sử dụng chiêu bài nhân quyền và dân chủ, các thế lực thù địch, phản động không ngừng bóp méo, xuyên tạc tiến trình thực hiện dân chủ và nền dân chủ XHCN của Việt Nam. Trên nhiều trang mạng xã hội, chúng cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ, chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền ở Việt Nam là “vừa đá bóng, vừa thổi còi” và vì thế dân chủ chỉ là hình thức và giả tạo. Bên cạnh đó, chúng viện dẫn rằng, về bản chất, đảng cộng sản là không dân chủ, cho nên chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo, cầm quyền vi phạm nền dân chủ. Muốn đạt tới một nền dân chủ đích thực, phải thi hành chế độ đa đảng. Thậm chí, chúng thường xuyên nhấn mạnh: thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm quyền chính là mảnh đất làm nảy sinh, dung dưỡng để phát triển tư tưởng và hành vi chuyên quyền, độc quyền, lộng quyền của đảng cầm quyền, gây mất dân chủ, cản trở quá trình phát triển xã hội. Từ đó, chúng quy kết hàm hồ rằng, ở quốc gia chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam thì không thể có dân chủ đích thực.

Từ những luận điệu trên của các thế lực thù địch, phản động, có thể thấy rằng chúng đang cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển; đồng thời, che giấu âm mưu thâm độc, nham hiểm, phản động là cổ xúy cho việc ra đời và công khai hóa, hợp pháp hóa các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ vai trò cầm quyền và lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng.

Thực tiễn lịch sử loài người cho thấy, dân chủ là một giá trị lớn của nhân loại; là sự khẳng định vai trò, quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Theo nghĩa từ nguyên, dân chủ là quyền lực của nhân dân, đã xuất hiện từ rất sớm ở Athen - Hy Lạp cổ đại, khi người dân tham gia trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định chính trị. Tuy nhiên, chế độ dân chủ hay nền dân chủ thì thế kỷ XVIII mới xuất hiện rõ nét, đúng nghĩa4. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là chủ thể sáng tạo nên lịch sử và cách mạng xã hội là sự nghiệp của nhân dân. Vì thế, quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao, là quyền lực gốc trong xã hội dân chủ. Quyền lực nhân dân cũng chính là cơ sở để nhận diện bản chất và nội dung mối quan hệ giữa nhân dân và các thiết chế được ủy quyền đại diện cho quyền lực của nhân dân trong xã hội dân chủ.

Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”5.

Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bài học “Dân là gốc”, các đường lối và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác lập vị trí nền tảng và vai trò làm chủ của Nhân dân trong toàn bộ thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam và mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng cầm quyền, nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của Nhân dân; xác định một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị trong nhiệm kỳ là: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh (…). Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”6.

Trải qua gần 40 năm đổi mới, việc xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN có những bước tiến quan trọng, thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Trong đó, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền làm chủ của Nhân dân, như Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin... Thông qua đó, quyền làm chủ của Nhân dân tiếp tục được bảo đảm và phát huy trong thực tế. Bên cạnh đó, sự phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội là minh chứng rõ nét cho những thành tựu phát huy dân chủ thực chất ở Việt Nam: quy mô GDP tiếp tục được mở rộng, GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 3.521 USD; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm trên 1,4%/năm7.

Có thể thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền dân chủ XHCN của chế độ ta không ngừng được củng cố và mở rộng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Thành tựu về xây dựng và phát huy dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng thời gian qua là một trong những tiền đề quan trọng, góp phần xây dựng nền tảng chính trị vững chắc cho thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc hiện thực hóa mục tiêu xây dựng xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn nữa, những kết quả trên một lần nữa khẳng định rằng, trong thiết chế chính trị Đảng Cộng sản cầm quyền duy nhất ở Việt Nam, dân chủ không những không bị hạn chế, mà còn được bảo đảm, được phát huy ngày càng rộng rãi, thực chất trên thực tế và phát triển lên đỉnh cao của nó, khẳng định rõ bản chất của nền dân chủ XHCN.

Như vậy, dân chủ là xu hướng phát triển tiến bộ của nhân loại nhưng nó không được quyết định bởi một đảng hay nhiều đảng, mà phụ thuộc vào việc đảng cầm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của ai. Đối tượng phục vụ của đảng cầm quyền là đa số nhân dân lao động hay một bộ phận nhỏ người chiếm hữu phần lớn số tài sản trong xã hội. Nếu đảng cầm quyền chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của đảng và giai cấp mình thì hoạt động của đảng đó sẽ mang tính cục bộ và khó có thể được các giai cấp và tầng lớp khác chấp thuận để trở thành lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Ngược lại, nếu một đảng vừa đại diện cho lợi ích của đảng mình, giai cấp mình song đồng thời cũng đại diện cho lợi ích của toàn xã hội thì chắc chắn đảng đó sẽ được nhân dân tin tưởng, ủy thác làm lãnh đạo xã hội. Điều đó là minh chứng xác thực để khẳng định rằng không phải đa đảng là dân chủ và một đảng là mất dân chủ.

Hơn nữa, thực hiện chế độ một đảng hay nhiều đảng là phụ thuộc vào điều kiện lịch sử của mỗi nước, tùy thuộc trực tiếp vào tương quan lực lượng cụ thể và truyền thống chính trị - văn hóa ở từng nước. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, có nhiều đảng chính trị, nhưng chỉ có những đảng của giai cấp tư sản mới có cơ hội và điều kiện cầm quyền. Những đảng đó có thể khác nhau về hình thức tổ chức, phương thức hoạt động và những mục tiêu cụ thể nhưng về bản chất đều đại diện cho các nhóm lợi ích khác nhau của giai cấp tư sản và đều có mục tiêu duy trì, phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, trình độ dân chủ không tỷ lệ thuận với số lượng các đảng phái chính trị. Điển hình như ở Hoa Kỳ hiện nay có khoảng 40 đảng, Hà Lan có 25 đảng, Na Uy có 23 đảng... nhưng chúng ta không thể kết luận rằng ở Hoa Kỳ dân chủ hơn ở Hà Lan hay Na Uy. Trên thế giới hiện nay có hơn 30 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng. Điều đó cho thấy chế độ chính trị do một đảng cầm quyền không phải là điều chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản lãnh đạo và không phải các nước theo chế độ một đảng không bảo đảm dân chủ. Vì thế, Việt Nam lựa chọn chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền cũng không phải là cá biệt, đi ngược lại xu thế chung của nhân loại như các thế lực thù địch vẫn rêu rao và cáo buộc.

3. Luận điệu Tập trung dân chủ là nguyên tắc xương sống trong tổ chức và hoạt động của nhà nước Việt Nam, hiện đã lỗi thời và không phù hợp với nguyên tắc pháp quyền và nhà nước pháp quyền

Các lực lượng thù địch, phản động, những phần tử cơ hội chính trị đã tìm mọi cách suy diễn, bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trước hết, chúng cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ cho đến thời điểm hiện tại đã lỗi thời, phản tác dụng; bởi lẽ, nguyên tắc này chỉ phù hợp trong thời kỳ chiến tranh, kế hoạch hóa tập trung. Hiện tại, đất nước đang đổi mới mạnh mẽ, việc duy trì nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ kìm hãm sự phát triển cá nhân, gây cản trở hiệu quả hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp và xã hội. Không dừng lại ở đó, các luận điểm sai trái còn rêu rao rằng, tập trung dân chủ là nguyên tắc do Đảng Cộng sản đặt ra cho công tác xây dựng đảng, nay mở rộng sang địa hạt của chính quyền nhằm mục đích là bàn đạp để đảng cầm quyền thuận lợi lấn sân, bao biện Nhà nước trong quản lý, điều hành các lĩnh vực cơ bản của xã hội; từ đó, sẽ thiết lập chế độ đảng độc tài cai trị mọi thứ dễ dàng. Do đó, nguyên tắc này theo chúng, thực chất chính là bức bình phong để che đậy bản chất muốn tiếm quyền đoạt lợi của Đảng Cộng sản. Hơn nữa, về bản chất, “dân chủ” và “tập trung” là hai mặt đối lập, không thể tồn tại trong một thực thể; “dân chủ” thuộc về chế độ tư bản chủ nghĩa, còn “tập trung” thuộc về xã hội chủ nghĩa; vì thế, nhà nước pháp quyền không thể được vận hành dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. 

Cả hai phương diện lý luận và thực tiễn đã cho thấy rằng, bất kỳ đảng chính trị nào muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có hệ tư tưởng, mục tiêu và vận hành dựa trên những nguyên tắc nhất định; nếu không có những nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động sẽ là một đảng chính trị vô kỷ luật, vô tổ chức, sẽ sớm đi đến tan rã.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc do V.I.Lênin đề xướng tại Đại hội Công nhân dân chủ xã hội Nga lần thứ IV (năm 1906). Nội hàm của nguyên tắc này là sự kết hợp hữu cơ giữa chế độ tập trung nhằm tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, mục tiêu, đường lối tổ chức và hoạt động của toàn đảng, với chế độ dân chủ nhằm phát huy cao nhất về trí tuệ, sự sáng tạo của tổ chức đảng và đảng viên trong năng lực và sức chiến đấu. Đây là sự kết hợp giữa hai yếu tố đối lập nhau nhẳm mục đích kìm hãm, hạn chế các khiếm khuyết vốn có trong mỗi yếu tố “tập trung” và “dân chủ”. Với sự kết hợp này, tập trung và dân chủ đã trở thành hai mặt thống nhất biện chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ và bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ và có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt được sự thống nhất và hiệu quả cao trong lãnh đạo, quản lý.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”8; “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”9.

Đề cập mối quan hệ này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong một mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, chứ không phải chỉ là tập trung hoặc là dân chủ. Hai mặt đó tuy mâu thuẫn nhau nhưng lại bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau làm thành một nguyên tắc hoàn chỉnh. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ sở, là cái đảm bảo cho dân chủ được thực hiện. Không nên hiểu dân chủ là “tính từ” của tập trung hoặc tập trung là “tính từ” của dân chủ. Tuyệt đối hóa một mặt nào đều dẫn đến những sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng”10.

Với ý nghĩa to lớn như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ đã được hiến định từ năm 1959. Kế thừa và nhất quán ba bản Hiến pháp trước đó, Khoản 1 - Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Quy định này không chỉ khẳng định vai trò và ý nghĩa nền tảng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà nước ở Việt Nam, mà còn như một “mệnh lệnh hiến định” buộc tất cả thiết chế công quyền phải bảo đảm và thực hiện.

Trước những xu thế mới của tình hình trong nước và thế giới, việc thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ đã có những yêu cầu và bước phát triển mới. Hiện nay, dân chủ là nhu cầu thiết yếu của cán bộ, công chức, đồng thời là nhu cầu tự thân để phát triển, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đòi hỏi phát huy dân chủ mạnh mẽ và sự sáng tạo, trí tuệ của mọi chủ thể trong quản trị quốc gia để các quyết sách, chính sách đúng đắn, thống nhất cao. Việc thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ hiện đã trở thành một đòi hỏi tất yếu trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước Việt Nam.

Tóm lại, các luận điệu sai trái, xuyên tạc, ngụy biện về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một cách thức “diễn biến hoà bình” rất xảo quyệt trong lĩnh vực tư tưởng - lý luận, được thể hiện dưới một chiêu bài hết sức tinh vi là “luận cứ khoa học và thực tiễn” hòng che đậy một động cơ chính trị cuối cùng là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, cần nhận diện rõ các luận điểm này và xây dựng các luận cứ khoa học, xác đáng nhằm đấu tranh, phản bác chúng một cách hiệu quả, thuyết phục; và qua đó, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao nhận thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bồi đắp niềm tin của Nhân dân vào nhà nước pháp quyền XHCN mà toàn hệ thống chính trị và cả xã hội đang xây dựng và hoàn thiện.

---------

Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị số 1 (37) - 2024

1 Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017, tr.64.

2 Đặng Viết Đạt: Pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số 9, 2010, tr.39-40.

3 Tuấn Vũ: Phê phán luận điệu phủ nhận nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Cổng thông tin điện tử, Học viện Chính trị khu vực III, ngày 30/03/2021.

4 Hồ Bá Thâm: Dân chủ hóa và phát huy nội lực, Nxb Phương Đông, 2007, tr.15.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.232.

6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.199-200.

7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.309, 43.

8, 9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.275, 263-264.

10 Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng chỉnh đốn Đảng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2012, tr.346-347.